🐰 Văn Học Vị Nhân Sinh
Quảng Ninh đồng ý bổ sung chỉ tiêu với 135 học sinh lớp 10 bị yêu cầu nghỉ học. 135 học sinh lớp 10 đang học trong lớp bất ngờ bị yêu cầu rời khỏi trường. Ngày 30/9, Sở Giáo dục và Đào tạo Quảng Ninh cho biết, đơn vị đã có quyết định xử phạt vi phạm hành chính
Mua Thẻ Học Sinh, Thẻ Nhân Viên Văn Phòng thời trang cao cấp kèm dây lụa siêu bền rộng 1,5cm giá tốt. Mua hàng qua mạng uy tín, tiện lợi. Shopee đảm bảo nhận hàng, hoặc được hoàn lại tiền Giao Hàng Miễn Phí. XEM NGAY!
Cựu sinh viên; Website đơn vị. Đại học Quốc gia Hà Nội đã tổ chức Lễ khai giảng chương trình đào tạo Đại học Văn bằng 2 hệ VHVL ngành Ngôn ngữ Anh khóa QH.2022 đợt 2. Ngày 10/05/2022 đã diễn ra lễ bế giảng và trao bằng cử nhân khóa QH.2020.F.2.VB2.E ngành tiếng Anh
07:59 - 12/09/2022 UBND tỉnh Nghệ An giao địa phương tuyên truyền, vận động học sinh đến trường, đồng thời, chỉ đạo kiên quyết và xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân có hành vi cản trở, đe dọa, ngăn cấm học sinh đến trường theo đúng quy định của pháp luật. Trường THCS Khai Lạng, đóng tại xã Khai Sơn.
Các kiến thức khoa học chuyên sâu được truyền thụ tới các sinh viên nhằm đào tạo đội ngũ nhân lực nghiên cứu cho tương lai. Không chỉ dừng lại ở mảng nghiên cứu, các sinh viên cũng được trải nghiệm thực tế qua các hoạt động thực tập tại các đơn vị (3 đợt), niên luận và khóa luận tốt nghiệp.
CHƯƠNG TRÌNH KÝ KẾT BIÊN BẢN GHI NHỚ HỢP TÁC VỚI TRƯỜNG HỌC HIỆU PHÁP NHÂN HỌC VIỆN 77 năm Ngày Nam Bộ kháng chiến (23.9.1945 - 23.9.2022): Mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp Tuyển sinh Đại học . 222 Lê Văn Sỹ, Phường 14, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Điện
Mua Bộ Dây Đeo + Bao Thẻ Học Sinh, Sinh Viên, Nhân Viên Văn Phòng giá tốt. Mua hàng qua mạng uy tín, tiện lợi. Shopee đảm bảo nhận hàng, hoặc được hoàn lại tiền Giao Hàng Miễn Phí. XEM NGAY!
Sinh viên nước ngoài đón Tết tại Việt Nam Created date:Monday, 28 January 2019; Sinh viên, học viên Khoa VIỆT NAM HỌC Trường Đại Học Xã Hội và Nhân Văn Thành Phố Hồ Chí Minh dịu dàng trong tà áo dài Việt Hùng Created date:Thursday, 10 January 2019
Điểm thi môn Sinh thái học vi sinh vật - Vi sinh K31. 60 . Đào tạo SĐH. Trung tâm đào tạo đại học, sau đại học, cung cấp nguồn nhân lực, đội ngũ chuyên gia trình độ cao trong lĩnh vực khoa học cơ bản và khoa học công nghệ mũi nhọn, có năng lực sáng tạo, làm việc trong
nTCG. 1. Giải thích2. Bàn luận “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học” 3. Chứng minh “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học” bằng những trải nghiệm khi đọc tác phẩm Nghị luận “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học” Tố Hữu Mở bài Văn học nghệ thuật có vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của con người. Mỗi tác phẩm văn học đều có một sinh mệnh riêng, một đời sống riêng. Tác phẩm đến từ đâu và hướng tới nơi nào, tất cả đều do người nghệ sĩ và bạn đọc quyết định. Bàn về điều này, nhà thơ Tố Hữu từng khẳng định “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học” Tố Hữu Thân bài 1. Giải thích “Cuộc đời là nơi xuất phát của văn học” Nội dung của các tác phẩm phải phản ánh được hiện thực, khám phá những vấn đề của cuộc sống. “Cuộc đời cũng là nơi đi tới của văn học” Văn học tác động trở lại cuộc đời, làm thay đổi nhận thức và tình cảm của con người để cuộc sống chung tốt đẹp hơn. Nhà thơ Tố Hữu khẳng định Văn học vị nhân sinh, vì cuộc đời mà văn học được sinh ra và cũng vì cuộc đời, vì con người mà văn học tiếp tục sứ mệnh xây dựng những thành lũy vững chắc cho tâm hồn con người. Trong đó, vai trò của người nghệ sĩ khá quan trọng. 2. Bàn luận “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học” Người sáng tác chiêm nghiệm cuộc sống, lựa chọn đề tài từ hiện thực góp nên trang viết của mình. Họ phản ánh đời sống bằng cái tâm của người nghệ sĩ chân chính, không tô hồng hay bôi đen hiện thực đó. Tuy nhiên, người sáng tác không bê nguyên thực tại vào trang viết của mình, qua lăng kính nghệ sĩ, hiện thực lung linh sinh động hơn, có ý nghĩa hơn. Tiếng nói của văn học nghệ thuật sẽ đồng hành cùng con người đi về phía tương lai. Bởi trong mỗi tác phẩm, người nghệ sĩ gửi vào đó những lời nhắn, những thông điệp sống, giúp con người nhận ra mình để sống tốt đẹp hơn. Cho nên nghệ sĩ còn mang thiên chức “kĩ sư tâm hồn”. Tuy nhiên, những bài học về lẽ sống gửi trong mỗi tác phẩm không đơn thuần là thuyết lí khô khan, nhà văn, nhà thơ nói bằng hình ảnh, bằng nhạc điệu, bằng các tình huống độc đáo. Và họ thắp lên trong lòng bạn đọc những ngọn lửa ấm, ngọn lửa hướng thiện. 3. Chứng minh “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học” bằng những trải nghiệm khi đọc tác phẩm Từ việc cảm nhận các tác phẩm đã đọc, học sinh chỉ ra tính đúng đắn của vấn đề đang giải quyết. Cảm nhận của học sinh cần chân thành, tinh tế, sâu sắc. Khuyến khích những bài viết cho thấy những phát hiện độc đáo của nhà văn đã thực sự có sức tác động mạnh mẽ đến người làm bài. – Tắt đèn – Ngô Tất Tố – Lão Hạc – Nam Cao – Trong lòng mẹ – Nguyên Hồng – Cô bé bán diêm – Andecxen Kết bài Trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ, người nghệ sĩ phải có con mắt tinh, có trái tim giàu cảm xúc mói nhận ra những vẻ đẹp của con người hay của thiên nhiên, mới nghe được âm thanh của cuộc sống… để đưa lên trang viết của mình. Người nghệ sĩ cũng phải có khả năng sáng tạo đặc biệt, lao động ngôn từ không mệt mỏi để dệt nên tác phẩm có sức sống vượt thời gian. Chứng minh “Văn học là cuốn bách khoa toàn thư về cuộc sống” Chứng minh “Tác phẩm vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng” Bài tham khảo Mở bài Văn học nghệ thuật có vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của con người. Mỗi tác phẩm văn học đều có một sinh mệnh riêng, một đời sống riêng. Tác phẩm đến từ đâu và hướng tới nơi nào, tất cả đều do người nghệ sĩ và bạn đọc quyết định. Bàn về điều này, nhà thơ Tố Hữu từng khẳng định “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học” Tố Hữu Thân bài “Cuộc đời là nơi xuất phát của văn học” Nội dung của các tác phẩm phản ánh được hiện thực, khám phá những vấn đề của cuộc sống. “Cuộc đời cũng là nơi đi tới của văn học” Văn học tác động trở lại cuộc đời, làm thay đổi nhận thức và tình cảm của con người để cuộc sống chung tốt đẹp hơn. Nhà thơ Tố Hữu khẳng định Văn học vị nhân sinh – vì cuộc đời mà văn học được sinh ra và cũng vì cuộc đời, vì con người mà văn học tiếp tục sứ mệnh xây dựng những thành lũy vững chắc cho tâm hồn con người. Trong đó, vai trò của người nghệ sĩ khá quan trọng. Cuộc đời đúng là nơi xuất phát của văn học. Nhà thơ, nhà phê bình văn học Nguyễn Đình Thi cũng đồng quan điểm với nhà thơ Tố Hữu khi cho rằng “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng mượn vật liệu ở thực tại”. Người sáng tác chiêm nghiệm cuộc sống, lựa chọn đề tài từ hiện thực góp nên trang viết của mình. Họ phản ánh đời sống bằng cái tâm của người nghệ sĩ chân chín không tô hồng hay bôi đen hiện thực đó. Tuy nhiên, người sáng tác không bê nguyên thực tại vào trang viết của mình, qua lăng kính nghệ sĩ, hiện thực trở nên lung linh sinh động hơn và có ý nghĩa hơn. Văn học là nơi in bóng của thời đại, nhà văn là thư kí trung thành của thời đại. Tác phẩm văn học, nghệ thuật, tự thân nó không thể xa rời hiện thực đời sống. Nhưng phản ánh hiện thực như thế nào, thì không phải là câu hỏi dễ trả lời. Không đơn giản chỉ là sự tả chân một cách cơ học, chưa nói rằng, tả chân đôi lúc cũng chưa hẳn là thấu đáo; và thực tiễn văn học, nghệ thuật cho thấy, thành tựu văn học, nghệ thuật phụ thuộc vào tài năng, quan niệm thẩm mỹ và sự thăng hoa cảm xúc của người nghệ sĩ. Mỗi nhà văn cũng là một thư kí trung thành của thời đại bới nếu không có hiện thực cuộc sống, mỗi nhà văn cũng không thể tự tưởng tượng ra những điều mới mẻ để viết. Kể cả chương viễn tưởng cũng là chiết xuất từ hiện thực những chất liệu cần thiết để hình thành nên. Không có tác phẩm nào mà không phản ánh hiện thực, cũng không có nhà văn nào có thể bước ra khỏi cuộc sống để viết. Đọc bài thơ Đồng chí của Chính Hữu, người đọc nhận ra ngay hoàn cảnh chiến đấu chống thực dân Pháp của quân và dân ta thời kì đầu thiếu thốn, trăm nghìn gian khó chưa thể giải quyết được, người lính còn chiến đấu trong tình trạng mất cân đối với kẻ thù. Đó là những ngày đầu khi ta chưa võ trang. Người đọc cũng nhận ra tinh thần vượt khó kiên cường, quyết chiến, quyết thắng kẻ thù, một lòng trung thành với đất nước của các chiến sĩ, dẫu gian nguy cũng không chịu lùi bước hay than vãn. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải ra đời năm 1980, khi đất nước vừa đi qua chiến tranh. Nhưng cuộc sống chung vẫn còn nhiều khó khăn chiến tranh lại nổ ra ở hai đầu biên giới phía Bắc và Tây Nam Tổ quốc, bữa cơm còn độn khoai, nhiều nơi còn loang lỗ hố bom … Hiện thực ấy đi vào trang thơ của Thanh Hải, ông viết Mùa xuân người cầm súng Lộc giắt đầy trên lưng Mùa xuân người ra đồng Lộc trải dài nương mạ Tất cả như hối hả Tất cả như xôn xao Ấn tượng nghệ thuật ở đoạn thơ này là cách dùng điệp ngữ “mùa xuân”, lộc”, “tất cả” khiến cho lời thơ nhịp nhàng, hình ảnh mùa xuân tràn đầy sức sòng hiện ra rõ nét. Hình ảnh hoán dụ “người cầm súng”, “người ra đồng” gợi lên mùa xuân đất nước, người người hối hả tay súng, tay cày; vừa xây dựng vừa bảo vệ biên cương Tổ quốc. Từ láy “hối hả”, “xôn xao” diễn tả không khí rộn ràng, khẩn trương, náo nức của cả nước. Nhà thơ viết những dòng thơ lúc đang nằm trên giường bệnh, tai không thể nghe được âm thanh mùa xuân đất nước, mắt không thể nhìn thấy người người ra trận, ra đồng. Nhưng tác giả vẫn cảm nhận được hiện thực cuộc sống và thể hiện trên trang viết của mình. Cuộc đời cũng là nơi đi tới của văn học. Tiếng nói của văn học nghệ thuật sẽ đồng hành cùng con người đi đến tương lai. Bởi trong mỗi tác phẩm, người nghệ sĩ gửi vào đó những lời nhắn, những thông điệp sống, giúp con người nhận ra mình để sống tốt đẹp hơn. Cho nên nghệ sĩ còn mang thiên chức “kĩ sư tâm hồn”. Tuy nhiên, những bài học về lẽ sống gửi trong mỗi tác phẩm không đơn thuần là thuyết lí khô khan; nhà văn, nhà thơ nói bằng hình ảnh, bằng nhạc điệu, bằng các tình huống độc đáo. Và họ thắp lên trong lòng bạn đọc những ngọn lửa ấm, ngọn lửa hướng thiện. Đến với bài thơ “Nói với con” của nhà thơ Y Phương, tấm lòng của người nghệ sĩ dân tộc Tày dành cho con, cho quê hương; đem tiếng thơ của mình góp vào đời sống một viên đá con làm nên thành lũy tâm hồn con người trong những năm 1980. Ở đoạn thơ thứ hai, người cha nói với con về phẩm chất của đồng bào mình và cũng là lời trao gửi niềm tin của một thế hệ dành cho một thế hệ. “Người đồng mình thương lắm con ơi Cao đo nỗi buồn Xa nuôi chí lớn Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn Sống trên đá không chê đá gập ghềnh Sống trong thung không chê thung nghèo đói Sống như sông như suối Lên thác xuống ghềnh Không lo cực nhọc” Y Phương đã không hề rời xa hiện thực đời sống, cách nghĩ, cách làm của “người đồng mình”. Tất cả đã được phản ánh chân thực, sinh động trong những vần thơ tha thiết. Đồng thời tiếng thơ quay trở lại bồi dưỡng tâm hồn con người, làm đẹp cho quê hướng, đất nước. Nghĩa là nó trở lại với nguồn cội đã sản sinh ra nó. Nghĩa là văn học đã đi tới với hiện thực cuộc sống sinh động và tái sinh một cuộc sống mới. Qua phần phân tích trên, ta thấy rõ, “cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là nơi đi tới của văn học”. Trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ, người nghệ sĩ phải có con mắt tinh tường, có trái tim giàu cảm xúc mới nhận ra những vẻ đẹp của con người, của thiên nhiên, mới nghe được, cảm được những âm thanh sống động và những vang động âm thầm của cuộc sống để đưa lên trang viết mình. Người nghệ sĩ cũng phải có khả năng sáng tạo đặc biệt, lao động không mệt mỏi để dệt nên tác phẩm có sức sống vượt thời gian. Kết bài Văn học không đơn thuần là phản ánh hiện thực mà là sự nghiền ngẫm về hiện thực. Văn học thoát ra từ hiện thực cuộc sống để sau đó trở lại phục vụ cuộc sống. Nhận định của nhà thơ Tố Hữu có ý nghĩa đề cao vai trò văn học trong sống con người đồng thời nhắc nhở người sáng tác và bạn đọc cần có sự đồng điệu để tác phẩm văn học tiếp thêm sức mạnh cho cuộc đời. Chứng minh Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ
Mỗi người cầm bút thường hay chọn cho chính bản thân mình một hướng đi. Có người sử dụng cây bút để được cái tiếng là nhà văn, nhà thơ. Có người không cần tiếng mà chỉ muốn sử dụng cây bút để mình tự sướng nên viết những điều mà không cần biết sự sống chung quanh mình ra sao, tha hồ tả tình tả cảnh trong khi đạo đức xã hội đang xuống cấp nhưng cái tình, cái cảnh vẫn đẹp trong giấc mơ tự sướng của bản thân. Có những người cầm bút vì muốn đóng góp khả năng của mình trong việc mở mang dân trí. Tại hải ngoại, những người ham cái danh nhà văn, nhà thơ nên bỏ tiền mướn ai đó viết giùm một tác phẩm, rồi tự bỏ tên mình vào và nhờ những người khác bơm mình lên để được danh hiệu trong văn đàn. Hoặc tự mình viết vài tác phẩm và sau khi đã được cái danh hiệu là “nhà văn”, “nhà thơ” thì chẳng còn đủ tâm trí để ra tác phẩm nào nữa. Ngay cả những bài bình luận trên Facebook FB của những “nhà văn, nhà thơ” thuộc loại này chỉ toàn là chia sẻ share những lời bình luận thời sự của người khác; và những “nhà văn, nhà thơ” này chẳng viết được một bài bình luận nào ra hồn trên FB của họ ngoại trừ những lời nhận xét bình thường vài câu chứ đừng nói là một bài viết có giá trị như bao nhiêu người khác trên FB. Ở trong nước những “nhà văn, nhà thơ” tự sướng cứ ra những tác phẩm tự sướng mà không cần biết xã hội ra sao. Cả dân tộc bị đãng cố ý viết dấu ngã cầm quyền cai trị, mất đi quyền tự do, thế nhưng các “nhà văn, nhà thơ” này cứ tự sướng để ca ngợi đãng, ca ngợi công lao của đãng. Cả đất nước đang bị đô hộ kiểu mới của Trung Hoa với các thái thú thời đại là đãng csvn nhưng các “nhà văn, nhà thơ” này mặc nhiên “yêu nước” kiểu trai/gái mới lớn, yêu mù quáng và mãi mê viết lên sự giàu có của đất nước trong khi sự giàu có đó đã bị đãng csvn cướp đoạt chẳng còn gì để khoe khoang giàu có. Loại bỏ những “nhà văn, nhà thơ” thuộc loại không có võ nói theo kiểu của Alan Phan, đối với những nhà văn nhà thơ có tài thực sự, câu hỏi được đặt ra cho những vị này, hoặc cho những ai muốn chọn văn thơ là nơi để khai dân trí — thì giữa hai trường phái Văn Học Vị Nhân Sinh và Văn Học Vị Nghệ Thuật sẽ phải chọn trường phái nào trong viết lách? Văn học luôn luôn phản ảnh thực tế của xã hội. Tất cả những tác phẩm có giá trị trên lãnh vực văn học đều là những tác phẩm phản ảnh thực tại của xã hội mà tác giả đang sinh sống. Điều này cũng dễ hiểu bởi những nhà văn có tài là những Con Người, những Con Người thấy được khổ đau của dân tộc, của xã hội và thấy rằng mình cần phải ghi lại; đưa những cảm xúc của mình vào tác phẩm với mục đích chia sẻ với những người đang sống trong xã hội đó, hoặc để lại cho thế hệ sau này một sự kiện thật trong khoảng thời gian của lịch sử đã xảy ra trong xã hội đó, trên đất nước đó, cho dân tộc đó. Khi viết những tác phẩm để phản ảnh sự thật của xã hội, mục đích của người viết không phải để đạt giải văn học nghệ thuật. Trái tim của người viết rỉ máu trước thực tế xã hội. Từ sự rỉ máu đó, tác phẩm được ra đời bằng cả tấm lòng, trái tim của người viết cho tác phẩm, cho tiếng nói của những người không có khả năng để diễn đạt qua chữ viết. Người viết muốn đánh lên một tiếng chuông để đánh thức mọi người — nhằm mục đích thay đổi cái xã hội, thay đổi lối suy nghĩ thiếu nhân bản đang hiện hữu để tạo một xã hội tiến bộ hơn, nhân bản hơn. Sự xuất hiện của nhóm Tự Lực Văn Đoàn từ năm 1932 đến năm 1942 với những tác phẩm để đời như Hồn Bướm Mơ Tiên, Đoạn Tuyệt, Nửa Chừng Xuân là những tác phẩm tiêu biểu nói lên cái hiện thực của xã hội, nói lên cái thật của Con Người mà mỗi người trong xã hội phải trực diện, phải chọn giải pháp cho chính mình. Mục tiêu thứ nhất của Tự Lực Văn Đoàn là mỗi thành viên phải tự mình sáng tác tác phẩm có giá trị văn chương. Nhưng để làm điều này, tác phẩm phải dính dáng đến đời sống, đến xã hội hiện tại. Chính ở điểm này mà một số tác phẩm của nhóm Tự Lực Văn Đoàn được nằm trong những tác phẩm đáng đọc, có giá trị văn hoá, nghệ thuật. Văn học luôn luôn đi đôi với đời sống hiện tại. Khi xã hội hiện tại băng hoại thì văn học diễn tả sự băng hoại của xã hội, với những câu hỏi của tác giả cho vấn nạn băng hoại trên và đem vào tác phẩm của chính mình. Tác giả không đơn giản ghi lại sự băng hoại đó, trái lại tác giả trăn trở với cái băng hoại đó và muốn tìm giải pháp thoát khỏi băng hoại trên qua tác phẩm do chính mình dựng lên, hoặc đặt câu hỏi cho độc giả tự tìm cách giải cho bản thân mình. Chính đời sống hiện tại đã tạo sự sống động, sự thật, sự nhân bản hay tàn bạo được phơi bày trong tác phẩm và từ đó, qua thời gian, tác phẩm trở thành vị nghệ thuật. Vậy thì văn học khởi đầu từ nhân sinh. Thiếu những nhân sinh, những nhân tố thật trong xã hội, văn học trở thành một thứ văn học què quặt, văn học tự sướng. Một nhà văn mà sẵn sàng quay mặt lại với sự thật để tâng bốc cái giả tạo, cái không xảy ra trong xã hội hiện tại — thì đây là một nhà văn bệnh hoạn, thiếu nhân cách; là một Con Người nhưng thú tính quá mạnh, cho nên không cảm nhận được nổi khổ đau của xã hội để diễn đạt đúng cái hiện thực của xã hội. Nền văn học xã hội chủ nghĩa của VN là thí dụ điển hình. Ngoài những tác phẩm được sáng tác trong thời kỳ cởi trói trong Trăm Hoa Đua Nở ở miền Bắc sau 1954 và Phong Trào Cởi Trói Văn Nghệ trong thời của Nguyễn Văn Linh trong thời điểm 1985 — có giá trị văn học bởi những tác phẩm này diễn tả được sự thật của xã hội và trăn trở của tác giả, tất cả những tác phẩm còn lại là những sáng tác bệnh hoạn. Bệnh hoạn đến nổi một nhà bình luận văn học nổi tiếng, Vương Trí Nhàn, cho rằng chuyện người ăn cắp thơ người khác, sửa lại làm bài thơ có giá trị hơn thì người ăn cắp thơ cũng được đánh giá là có tài, có khả năng. Cả chuyện ăn cắp mà đáng được ca ngợi trên lãnh vực văn học thì nền văn học xã hội chủ nghĩa chỉ là một nền văn học ăn cắp, bệnh hoạn. Ca ngợi người ăn cắp đã làm bài thơ có giá trị hơn, hay hơn thì phải chăng khuyến khích sự ăn cắp trong văn học. Mà đã là ăn cắp văn học thì chẳng phải là của mình — mà là của ăn cắp thì làm gì có giá trị trong đó. Có lẽ cái nhìn của những người làm văn học xã hội chủ nghĩa khác với cái nhìn của thế giới. Cũng giống như bản chất xã hội chủ nghĩa cũng đã khác lạ với trào lưu của thế giới thành ra chuyện đánh giá văn học xã hội chủ nghĩa không có gì phải đáng ngạc nhiên lắm. Đến đây thì câu trả lời đã rõ. Văn học bắt đầu từ nhân sinh, phục vụ nhân sinh, vị nhân sinh. Cái giá trị nghệ thuật sẽ xảy ra nếu tác giả biết đem cái nhân sinh đó vào tác phẩm của mình để tạo ra một tác phẩm sống thực, diễn tả thật đời sống của xã hội mà tác giả đang sống để truyền lại cho thế hệ sau này. Nếu văn học chỉ là một sự tự sướng thì nền văn hoá của một dân tộc cũng chỉ là một nền văn hoá không có thật, một nền văn hoá bệnh hoạn. Mà dân tộc nào đi lên từ nền văn hoá bệnh hoạn đó thì sớm muộn dân tộc đó cũng sẽ bị diệt vong. Liệu dân tộc Việt với hơn 4 ngàn năm văn hiến sẽ tồn tại trong vài trăm năm tới hay trở thành một khối của dân tộc Trung Hoa? Đây là câu hỏi mà tất cả mọi người Việt ở khắp mọi nơi, những người còn quan tâm đến sự sống còn của dân tộc Việt cần phải tìm câu trả lời cho chính mình và chính dân tộc mình. Vũ Hoàng Anh Bốn Phương Tháng 8 năm 2016 Dallas, TX
Nghệ thuật vị nhân sinh tiếng Pháp l’art pour la vie là lý thuyết khẳng định bản chất xã hội của nghệ thuật, chủ trương nghệ thuật gắn với đời sống xã hội và chính trị, chống lại các khuynh hướng nghệ thuật thoát ly cuộc sống, “nghệ thuật thuần tuý” coi hình thức là trên hết. Nghệ thuật vị nhân sinh là một luận điểm cơ bản và rất tổng quát của mỹ học duy vật. Bản thân nó bao gồm một hệ thống nhiều vấn đề rất trọng yếu như nghệ thuật và xã hội, chức năng của nghệ thuật, nghệ thuật và chính trị, tính giai cấp, tính nhân dân của nghệ thuật, sứ mệnh người nghệ sĩ,… mà việc giải quyết những vấn đề này lại gắn liền với những thành tựu của triết học và mỹ học duy vật của các thời đại. Do vậy, các cách lý giải trước khi có Chủ nghĩa Mác, kể cả của các nhà dân chủ cách mạng Nga ở thế kỷ XIX, đều chưa được triệt để và còn có những hạn chế nhất định. Dựa trên cơ sở triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử coi nghệ thuật là hình thái ý thức xã hội đặc thù, là loại sản xuất tinh thần đặc thù, chịu sự quy định của cơ sở kinh tế – xã hội, của đời sống tinh thần, tâm lý của xã hội, mỹ học ,mác-xít đã và đang giải quyết một cách khoa học, triệt để và toàn diện các vấn đề trên. Nghệ thuật vị nhân sinh là khẩu hiệu đấu tranh của những người theo quan điểm văn nghệ mác-xít ở nước ta chống lại phái “nghệ thuật vị nghệ thuật’’ trong cuộc tranh luận lớn về nghệ thuật thời kỳ Mặt trận Dân chủ 1936 – 1939. Trong cuộc tranh luận này, phái “vị nhân sinh” đã chứng minh rằng không có văn nghệ đứng ngoài đấu tranh giai cấp và không theo khuynh hướng nào. Nếu văn nghệ không làm lợi cho giai cấp này thì sẽ làm lợi cho giai cấp khác. Họ chủ trương, trong xã hội có áp bức bốc lột, nhà văn chân chính phải “đem ngòi bút lột trán cái xã hội hiện tại để cho dân chúng trông rõ nguồn gốc của mọi sự đau thương và để tìm lấy đường sống“. Mặc dù còn có thiếu sót, phái “nghệ thuật vị nhân sinh” đã giành được thắng lợi lớn. Lần đầu tiên ở Việt Nam, quan điểm văn nghệ mác-xít được truyền bá tương đối hệ thống, bước đầu đẩy lùi ảnh hưởng của khuynh hướng văn học thoát ly, cổ vũ các khuynh hướng văn học tiến bộ.
văn học vị nhân sinh