🧑‍🎤 Doc Truyen Tieu Thuyet Đỗ Đỗ

Xuyên Thành Người Qua Đường Giáp Trong Tiểu Thuyết Đam Mỹ FULL , chương 1 của tác giả Trương Giai Âm cập nhật mới nhất, full prc pdf ebook, hỗ trợ xem trên thiết bị di động hoặc xem trực tuyến tại sstruyen.vn. Đỗ đại nương thấy Liễu Ngọc Như lặng thinh liền từng bước ép sát, "Sao, muốn quỵt à?!" "Đỗ đại nương," Liễu Ngọc Như suy tư một lát liền phục hồi tinh thần rồi cất tiếng, "nếu đây là trách nhiệm của cửa hàng nhà ta thì dĩ nhiên nên bồi thường. [Review sách] Đọc tiểu thuyết: truyện về Bá tước Monte Cristo - Alexandre Dumas. 0 lượt xem | thứ năm, 20/10/2022 - 03:05. Bá tước Monte Cristo là một cuốn tiểu thuyết sẽ mang đến cho người đọc mọi cung bậc cảm xúc quen thuộc nhất của một con người. Nó bao gồm tình yêu, sự Ngay sau đây mời quý vị các bạn cùng lắng nghe truyện đêm khuya Màu Thửa Ruộng của tác giả Đỗ Tiến Thuỵ qua giọng đọc NSƯT Hà Phương. Giọng đọc: VOV. Tác giả: Đỗ Tiến Thuỵ. 1 người đang nghe. Lượt nghe: 11.258. Nghe Đọc Truyện Đêm Khuya VOV Chọc Lọc (22H00 hằng ngày Nhặt Nắng Chiều Rơi Đỗ Quyên Truyện Dài Tình Cảm. CHAPTERS 10 READ 90619. Please make a donation to help us pay for hosting cost and keep this website FREE. DONATE. DONATE A BOOK. If you have books published before 1975, please help us preserve South Vietnamese Literature by scanning or donating them to us. Đánh giá: 7.0/10 từ 32 lượt. Ngọn tiểu phi đao xuất hiện, tất cả đều phải ớn lạnh, vì đã chưa từng và có lẽ sẽ không người nào tránh được ngọn phi đao. Người ta chỉ sợ ngọn phi đao khi nó ở trên tay, và nó cũng chỉ khủng bố tinh thần địch thủ khi ở trên tay Đọc truyện tiểu thuyết - Thép đã tôi thế đấy Chương 15 Tốp-tan cất giọng bắt ngay lấy điệu hát quen thuộc. Anh dang hai tay lên như hai cánh chim, lượn vòng tròn, hai chân đập vào nhau, tay vỗ chan chát vào ống giày vào gối, vào sau gáy, vào trán, vào đế giày và cuối cùng Truyện: Hạt đỗ sót. Thứ hai, 3/1/2022, 20:43 , Lượt đọc : 273. Mùa thu đến, bà đem các hạt đỗ đen gieo trên luống đất sau nhà. Có một hạt đỗ bị mắc vào mạng nhện, nằm sót lại trong đáy lọ nên gọi là Đỗ Sót. Đố Sót kêu lên " Còn chán nữa…cháu không ra được Mời các bạn đọc truyện tiểu thuyết truyện được cập nhật tại chuyên mục truyện ngắn hay của truyen18.com. Tiểu thuyết truyện ngắn LỜI TÁC GIẢ : Tình yêu, hận thù, hiếp dâm, dị dâm, án mạng… Một người đàn ông, một người đàn bà, một gã thanh niên, một cô gái đẹp… Và tôi, trong một đêm gió mưa xa xưa, của buổi thiếu thời… YkEd. Nhóm quản trị Cumusic, Easyman, Huyền Băng, KeDangGhet, Mercury, Mars, Mọt Sách. Nhóm điều hành Băng Nguyệt, Canary, Cumusic, Diên Vỹ, Donation, Easyman, Hoàng Dung, HongYen, Huyền Băng, James Jee, KeDangGhet, Khánh Quỳnh, Kim_Bang_2, Lang Thang, Mars, Mickey, NCD, Nguyên Đỗ, NKT, Phongvans, QV, Saomai1268, Sunflower, Thanh Vân, Tommyboy, Viet Duong Nhan. Bài viết và sách tại thuộc quyền sở hữu của người viết và của • Copyright © 2002 - 2023 Viet Nam Thu Quan • Designed by Phạm Huy Hùng • Trang Sách Truyện hiện có 996 người đang online, Đã Có 35018 Lượt Truy Cập Trong Ngày. 0 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRẦN KIM DŨNG HIỆN THỰC ĐÔ THỊ TRONG TIỂU THUYẾT ĐỖ PHẤN LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN NGHỆ AN - 2013 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRẦN KIM DŨNG HIỆN THỰC ĐÔ THỊ TRONG TIỂU THUYẾT ĐỖ PHẤN Chuyên ngành Lý luận văn học Mã số LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học TS. LÊ VĂN DƯƠNG NGHỆ AN - 2013 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU..........................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề...........................................................................................1 3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi tư liệu khảo sát.......................................3 4. Nhiệm vụ nghiên cứu................................................................................4 5. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................4 6. Cấu trúc luận văn.......................................................................................4 Chương 1. TIỂU THUYẾT ĐỖ PHẤN TRONG BỨC TRANH CHUNG CỦA VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI VỀ ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ........................................................................................5 Sự thể hiện đề tài đô thị trong văn xuôi Việt Nam hiện đại...................5 Khái niệm đô thị..............................................................................5 Đề tài đô thị trong văn xuôi Việt Nam trước 1945 đến năm 1975 ...................................................................................................................8 Đề tài đô thị trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1975...................12 Một số tác giả tiêu biểu trong văn học Việt Nam từ 1975 đến nay viết về đề tài đô thị......................................................................................16 Ma Văn Kháng..............................................................................16 Nguyễn Việt Hà.............................................................................18 Hồ Anh Thái..................................................................................21 Phong Điệp....................................................................................22 Chu Lai..........................................................................................26 Đỗ Phấn - một cây bút có nhiều đóng góp cho văn học Việt Nam hiện đại qua mảng đề tài đô thị...................................................................28 1 Đỗ Phấn - vài nét về con người, cuộc đời và sự nghiệp................28 Hiện thực đô thị - đề tài nổi bật trong tiểu thuyết Đỗ Phấn..........29 Chương 2. CÁC PHƯƠNG DIỆN CHỦ YẾU CỦA HIỆN THỰC ĐÔ THỊ ĐƯỢC PHÁN ÁNH TRONG TIỂU THUYẾT ĐỖ PHẤN..................................................................................35 Sự xuống cấp của đạo đức, sự xáo trộn của các bảng giá trị................35 Sự cô đơn của con người......................................................................52 Sự xung đột giữa truyền thống và hiện đại..........................................62 Chương 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN HIỆN THỰC ĐÔ THỊ TRONG TIỂU THUYẾT ĐỖ PHẤN...........................................71 Tiểu thuyết như là sự tập hợp nhiều câu chuyện nhỏ...........................71 Bút pháp trào lộng, giễu nhại và nhãn quan ngôn ngữ hậu hiện đại .....................................................................................................................74 Nghệ thuật xây dựng không gian đô thị và xây dựng chân dung con người đô thị..........................................................................................77 KẾT LUẬN....................................................................................................84 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................86 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hiện thực đô thị là một đề tài không phải mới trong văn học Việt Nam hiện đại, nhưng từ những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, nó đã được những người cầm bút quan tâm một cách đặc biệt. Chính sự quan tâm đó đã đưa đến nhiều kết quả đáng được ghi nhận, với một đội ngũ tác giả chuyên khai thác đề tài này và với những tác phẩm gây được tiếng vang rộng rãi trên văn đàn. Rõ ràng, đây là hiện tượng cần được tìm hiểu một cách sâu sắc, thấu đáo. Đỗ Phấn là một “ca” đặc biệt trong làng văn Việt Nam đương đại. Xuất thân là họa sĩ nhưng ông lại chọn văn chương như một điểm đến và có những thành công được văn giới thừa nhận, nhất là ở thể loại tiểu thuyết. Đô thị là đề tài chính trong tiểu thuyết của ông. Vậy, đâu là cái mới, là đóng góp riêng của Đỗ Phấn so với những nhà văn khác cùng quan tâm thể hiện đề tài này? Cho đến nay, đây còn là vấn đề chưa được chú ý nghiên cứu. Nói đến hiện thực đô thị thực ra chỉ là một cách để nói đến sự tồn tại của con người trong xã hội hiện đại với bao vấn đề nhức nhối của nó. Đỗ Phấn luôn ý thức được điều này. Bởi vậy, sáng tác của ông luôn gợi nghĩ đến những chuyện có tính phổ quát. Qua nghiên cứu tiểu thuyết Đỗ Phấn, hẳn nhiên ta sẽ có dịp hiểu thêm về những cách mà các nhà văn Việt Nam đã vận dụng để đưa tác phẩm của mình đạt tới tầm khái quát cao, đụng tới những vấn đề có ý nghĩa thời đại. 2. Lịch sử vấn đề Đối với nhiều người, trong đó có các nhà phê bình văn học, Đỗ Phấn có lẽ đang là một hiện tượng ít được biết tới. Vì vậy, những bài viết về tác giả này chưa nhiều. Tuy vậy, cũng có một số ít ý kiến đáng chú ý. 2 Tháng 10/2011 Dương Tử Thành trong bài Gã thị dân lạc lõng giữa 'Rừng người trên trang đã nêu lên tính mới, tính thời sự trong tiểu thuyết Đỗ Phấn “ ... Không phải ngẫu nhiên mà văn Đỗ Phấn nhận được sự cộng hưởng từ phía những người trẻ. Là bởi tính chất thời sự của vấn đề anh đặt ra, cách anh đào sâu vào những vấn đề của xã hội đương đại... luôn bám sát đời sống đương đại ... Có thể nói ít người theo đuổi, tha thiết với đô thị, nhìn nhận các vấn đề của đô thị một cách thấu triệt, mổ xẻ, tiên đoán, bắt bệnh cho nó nhiệt thành, cùng kiệt như Đỗ Phấn. Ở các tiểu thuyết của anh, người ta thấy một đô thị đang vỡ ra, đang bị cày xới, sục sạo trong cuộc chiến giữa bản thể và những lai tạp nhố nhăng”. Đoàn Ánh Dương, trong bài Lưỡng lự và chiêm nghiêm Văn nghệ, số 35 + 36 - 2011, đánh giá cao bút lực của Đỗ Phấn về mảng đời sống đô thị hiện đại “Trong mấy năm trở lại đây, từ hội hoạ chuyển sang lĩnh vực văn chương, Đỗ Phấn đã nhanh chóng khẳng định được bút lực của mình. Trong sáng tác của anh, đời sống đô thị hiện đại luôn hiện ra với nhiều dáng vẻ, khiến người đọc khó mà không suy ngẫm về nó … văn Đỗ Phấn sắc sảo đến chao chát trong việc lột tả hiện thực đời sống thị dân bát nháo”. Khẳng định những thành công của Đỗ Phấn ở phương diện kỹ thuật viết tiểu thuyết, Trần Nhã Thuỵ, trong bài Vừa nhớ vừa bịa, đăng cuối tiểu thuyết Vắng mặt Đỗ Phấn, Nxb Hội Nhà văn, 2010, viết “Không còn hư thực, lẫn lộn nữa, mà là vắng mặt. Con người soi gương và hốt hoảng không nhìn thấy khuôn mặt mình. Nhưng sản phẩm không “nói triết”, tác giả cũng loại trừ một lối viết ẩn dụ, hay huyền ảo, hay giễu cợt, hay luận đề… Tác giả chỉ tập trung làm rõ những tính chất của sự thật bằng cách lấy hiện thực làm chất lửa, và phổ lên đó cái giọng buồn, cái nụ cười thầm của mình”. Hoài Nam, trong bài Hai họa sĩ của làng văn Việt An ninh thế giới cuối tháng, số 133, tháng 9 - 2012, cho rằng “Đỗ Phấn viết cái gì và viết như 3 thế nào? “Đời sống thị dân bát nháo” - đó là một chủ đề trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn, một chủ đề nằm trong phối cảnh chủ đề rộng hơn đời sống đô thị như nó đang diễn ra. Trên phương diện này, so với những nhà văn như Hồ Anh Thái hay Nguyễn Việt Hà, Đỗ Phấn là người đến sau chính vì thế mà anh phải tìm và đã tìm được lối đi riêng của mình”. Bài Đỗ Phấn giữa chúng ta của Đoàn Ánh Dương đăng trên trang ra ngày 20/4/2012 đã đưa ra một số đối sánh, từ đó làm rõ thêm trong sáng tác của Đỗ Phấn như sau “... Nguyễn Việt Hà và Đỗ Phấn, đều từ các lĩnh vực khác muộn mằn đến với văn chương, mỗi người mỗi kiểu, mỗi cách và đều rất độc đáo. Ở Nguyễn Việt Hà, nó đọng ở cấu trúc nghệ thuật ngôn từ và ở Đỗ Phấn, nó lửng lơ ở ngoài cái cấu trúc ngôn từ nghệ thuật ấy ... Sáng tác của Đỗ Phấn không nhằm bày ra cho người đọc cấu trúc ngôn từ nghệ thuật, cũng không tham vọng cao đàm khoát luận về giá trị, tư tưởng, tự do, chân lý. Nó chỉ bày ra một sự thụ cảm cuộc sống một cách có nghệ thuật”. Trên đây là các bài viết về tiểu thuyết Đỗ Phấn tuy chưa nhiều nhưng đều có những đánh giá khá “chụm” về thành công mảng đề tài đô thị của ông. 3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi tư liệu khảo sát Đối tượng nghiên cứu Hiện thực đô thị trong tiểu thuyết Đỗ Phấn. Phạm vi tư liệu khảo sát Tiểu thuyết của Đỗ Phấn - Vắng mặt, 2010 Nxb Hội Nhà văn - Công ty Bách Việt. - Rừng người, 2010 Nxb Phụ nữ. - Chảy qua bóng tối, 2011Nxb Trẻ. - Gần như là sống, 2013 Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh Các sáng tác khác của Đỗ Phấn - Chuyện vãn trước gương 2005 Tản văn, Nxb Hội Nhà văn. 4 - Kiến đi đằng kiến 2009, Tập truyện, Nxb Phụ nữ. - Đêm tiền sử 2009, Tập truyện, Nxb Hội Nhà văn. - Thác hoa 2010, Tập truyện, Nxb Quân đội nhân dân. - Ông ngoại hay cười 2011, Tản văn, Nxb Lao động - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây. Sáng tác của các nhà văn khác Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà… để so sánh, đối chiếu 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn nhằm tìm hiểu - Tiểu thuyết Đỗ Phấn trong bức tranh chung của văn xuôi Việt Nam hiện đại về đề tài đô thị. - Chiêm nghiệm về hiện thực đô thị trong tiểu thuyết Đỗ Phấn. - Nghệ thuật thể hiện hiện thực đô thị trong tiểu thuyết Đỗ Phấn. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau - Phương pháp hệ thống - cấu trúc. - Phương pháp miêu tả. - Phương pháp so sánh - đối chiếu. - Phương pháp phân tích - tổng hợp. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được triển khai qua 3 chương Chương 1. Tiểu thuyết Đỗ Phấn trong bức tranh chung của văn xuôi Việt Nam hiện đại về đề tài đô thị Chương 2. Các phương diện chủ yếu của hiện thực đô thị được phản ánh trong tiểu thuyết Đỗ Phấn 5 Chương 3. Nghệ thuật thể hiện hiện thực đô thị trong tiểu thuyết Đỗ Phấn 6 Chương 1 TIỂU THUYẾT ĐỖ PHẤN TRONG BỨC TRANH CHUNG CỦA VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI VỀ ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ Sự thể hiện đề tài đô thị trong văn xuôi Việt Nam hiện đại Khái niệm đô thị Đô thị hoá là xu thế tất yếu của mọi quốc gia trên con đường phát triển. Những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, ở những mức độ khác nhau và với những sắc thái khác nhau, làn sóng đô thị hoá tiếp tục lan rộng như là một quá trình kinh tế, xã hội toàn thế giới - quá trình mở rộng thành phố, tập trung dân cư, thay đổi các mối quan hệ xã hội; quá trình đẩy mạnh và đa dạng hoá những chức năng phi nông nghiệp, mở rộng giao dịch, phát triển lối sống và văn hoá đô thị. Quá trình đô thị hoá ở Việt Nam tuy diễn ra khá sớm, ngay từ thời trung đại với sự hình thành một số đô thị phong kiến, song do nhiều nguyên nhân, quá trình đó diễn ra chậm chạp, mức độ phát triển dân cư thành thị thấp. Thập kỷ cuối thế kỷ XX mở ra bước phát triển mới của đô thị ở Việt Nam. Đặc biệt, sau khi Quốc hội Việt Nam ban hành Luật Doanh nghiệp năm 2000, Luật Đất đai năm 2003, Luật Đầu tư năm 2005; Chính phủ ban hành Nghị định về Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất năm 1997… nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng vọt, gắn theo đó là sự hình thành trên diện rộng, số lượng lớn, tốc độ nhanh các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị mới và sự cải thiện đáng kể kết cấu hạ tầng ở cả thành thị và nông thôn. Làn sóng đô thị hoá đã lan toả, lôi cuốn, như thổi luồng sinh khí mới và tác động trực tiếp đến nông thôn, đời sống con người Việt Nam. Ở Việt Nam, theo Nghị định số 72/2001/NĐ-CP ngày 5 tháng 10 năm 2001 của Chính phủ Việt Nam về việc phân loại đô thị và cấp quản lý đô thị, 7 đô thị là khu dân cư tập trung có những đặc điểm sau về cấp quản lí, đô thị là thành phố, thị xã, thị trấn được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập; về trình độ phát triển, đô thị phải đạt được những tiêu chuẩn sau là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước hoặc một vùng lãnh thổ như vùng liên tỉnh, vùng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc vùng trong tỉnh, trong thành phố trực thuộc Trung ương; vùng huyện hoặc tiểu vùng trong huyện. Đối với khu vực nội thành phố, nội thị xã, thị trấn tỉ lệ lao động phi nông nghiệp tối thiểu phải đạt 65% tổng số lao động; cơ sở hạ tầng phục vụ các hoạt động của dân cư tối thiểu phải đạt 70% mức tiêu chuẩn, quy chuẩn thiết kế quy hoạch xây dựng quy định cho từng loại đô thị, quy mô dân số ít nhất là 4000 người và mật độ dân số tối thiểu phải đạt 2000 người/km². Từ sau 1986, đất nước dường như đã dần “thay da đổi thịt”, con người Việt Nam lúc này đã có những sự thay đổi lớn trong đời sống. Với suy nghĩ và hiện thực cũng khác trước, họ đã dần dần khẳng định mình trong xã hội. Bộ mặt nông thôn ngày nay cũng khác nhiều so với trước đây. Người nông dân giờ đã không còn thô mộc như người nông dân xưa. Sự thay đổi ấy hiện dần lên từ manh quần, tấm áo lành lặn, sạch sẽ. Nhiều người đã rời bỏ công việc nặng nhọc mà trước phải dùng sức lực lao động thủ công thì giờ được thay thế bằng máy móc công nghiệp. Người ta có thời gian để nghe đài đọc báo nhiều hơn, quan tâm đến đời sống chính trị nhiều hơn. Từ đó trình độ dân trí của nông dân được nâng cao. Nền kinh tế thị trường dần lấn át vào đời sống con người. Đô thị hóa là một quá trình tất yếu. Việc ngăn chặn các luồng di dân từ nông thôn vào thành thị là không thực tế và không thể. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, chỉ có thể làm chậm lại chứ không thể ngăn cản hoàn toàn quá trình đô thị hóa và những luồng di dân của người nghèo vào thành phố. 8 Cuộc sống đô thị trở nên hấp dẫn và cuốn hút hơn, con người muốn thay đổi cuộc sống của mình khi đặt chân lên thành thị. Từ những miền quê nghèo, người dân bước chân vào cuộc sống phồn hoa đô thị, với ước vọng đổi đời, nhưng vòng xoáy cuộc sống đã cuốn con người vào cơn lốc của cơ chế thị trường thời mở cửa. Có thể đấy là bước ngoặt lớn thay đổi vận mệnh con người, và cũng có thể đấy là bước chân hụt khi chạm tới môi trường thành thị. Theo Giáo sư Đặng Vũ Khiêu, nhà triết học, nhà nghiên cứu văn hóa “Dưới chế độ phong kiến, giữa nông thôn và thành thị là một khoảng cách quá xa. Thời gian gần đây, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, chúng ta thấy nông thôn đang xích lại gần hơn với thành thị. Quá trình đô thị hóa nông thôn đã biến nền sản xuất nông nghiệp độc canh trở thành nền sản xuất hàng hóa đa ngành nghề. Lối sống thành phố du nhập vào nông thôn rất nhanh, tác động lớn tới cuộc sống, phong tục tập quán thôn quê Việt Nam và những giá trị văn hóa truyền thống lâu đời”. Nếu như ở nông thôn trước kia còn nhiều hủ tục, mê tín dị đoan thì nay đã bớt đi nhiều. Quá trình đô thị hóa nông thôn đã đem lại rất nhiều thành tựu cho đất nước. Cái được là rất lớn. Những gì tốt đẹp mà đời sống vật chất đem lại cho con người đã nảy sinh dần dần trong nông thôn. Đời sống được nâng cao đã khiến cho người ta xây dựng lại nhà cửa đẹp, khang trang hơn. Đường sá nông thôn được trải nhựa, bê-tông sạch sẽ, đi lại thuận tiện. Người nông dân trước kia chỉ quanh quẩn trong thôn làng, giờ mở rộng quan hệ ra bên ngoài. Tuy nhiên, những nét đẹp truyền thống trong gia đình, họ hàng, làng xóm láng giềng cũng có phần bị tổn hại; một bộ phận thanh niên ăn chơi, đua đòi; quan hệ con cái với cha mẹ trong một số gia đình ngày càng xa dần; thế hệ trẻ tiếp thu nhanh xu thế hiện đại, ngược lại với đa phần người cao tuổi cố giữ những giá trị truyền thống, dẫn tới những mâu thuẫn mới. 9 Đề tài đô thị trong văn xuôi Việt Nam trước 1945 đến năm 1975 Trong nhiều tác phẩm viết về đề tài đô thị thuộc giai đoạn văn học 1945 - 1975, các nhà văn đã tập trung miêu tả cuộc sống thành thị với cảm hứng phê phán những lối sống thực dụng, buông thả, không lý tưởng, coi đồng tiền là trên hết, bất chấp luân thường, đạo lý. Tiểu thuyết Cô Lan của Anh Huy, Hai dòng con của Hoàng Thị Như Mai… là sự cảnh báo về sự xuống cấp về mặt đạo đức, sự tha hóa của tầng lớp trí thức trước làn sóng vật chất và văn minh phương Tây. Lan trong Cô Lan là người có học nhưng cuối cùng gặp phải những trắc trở trong cuộc đời cũng bởi cô coi thường các giá trị truyền thống để chạy theo lối sống thực dụng, mờ mắt trước đồng tiền và cuộc sống xa hoa nơi phố thị. Lan sống trong một vòng luẩn quẩn không lối thoát. Mẹ nàng vốn là một gái bán hương, vì cuộc sống mưu sinh đã làm vợ bé ông Mộc, chủ nhà nghỉ Mộc Hương. Cuộc sống mẹ con Lan thay đổi từ đó. Lan sống trong nhung lụa, lớn lên xinh đẹp. Thế rồi nàng yêu Trúc, con riêng của Mộc. Trúc qua Pháp du học, Lan ở nhà buồn bã tìm đến rượu và thú vui khiêu vũ. Nàng bị giáo sư khiêu vũ chuốc rượu và cưỡng hiếp. Nàng được ông Mộc đưa đến nhà bác sĩ Hại để bỏ cái thai. Sau đó Lan bị Hại cưỡng dâm nhiều lần. Cuộc đời của Lan bắt đầu trượt dốc và nàng trở thành món đồ chơi của Mộc. Toàn bộ cuộc sống tủi nhục của Lan được cô viết thành thiên phóng sự xã hội Một thế giới hỗn loạn. Trong thế giới ấy, mọi giá trị đạo đức truyền thống dường như bị đảo lộn hoàn toàn. Sự sa ngã của con người trước đồng tiền cũng được các nhà văn đặc biệt chú ý miêu tả với cảm hứng phê phán. Trong rất nhiều cuốn tiểu thuyết, đồng tiền phi nghĩa lắm lúc là tác nhân gây nên bi kịch của gia đình, bi kịch cá nhân. Cuộc sống vật chất cũng đã làm cho Cẩm Tâm trong Hai dòng con từ một cô gái hiền lành trở thành kẻ phá nát sự nghiệp của cha, đẩy hai người anh đến cảnh khốn cùng. Bản thân Cẩm Tâm cũng phải nhận lấy cái chết đau đớn và để lại các con còn thơ dại. Điều đáng 10 nói là qua hình tượng nhân vật Lan, Cẩm Tâm tác giả cũng đã chỉ ra sự lầm lạc của họ phần là do hoàn cảnh xã hội tạo nên và cần phải cải tạo xã hội. Đó là một cái nhìn sâu sắc, tiếng nói đầy trách nhiệm của nhà văn đối với cuộc sống con người và xã hội. Trong lời giới thiệu thiên phóng sự Một thế giới hỗn loạn của Ly Thôn, nhà văn Anh Huy đã cho thấy phần nào ý hướng đó “Cô Lan, nhân vật chánh trong thiên phóng sự này là hình ảnh của một số gái Việt và có lẽ cũng là hình ảnh của tôi, đang cùng sống trong một hoàn cảnh ngặt nghèo nếu không gọi là số kiếp… Giờ đây mời bạn hãy đi sâu vào lòng xã hội để cùng tôi chiêm nghiệm ít cảnh đời. Ước ao đây chỉ là một chuyến đò đang qua một khúc sông đêm để đi đến một bến mai tươi sáng”. Trong giai đoạn này ta không thể không nhắc tới Tự Lực văn đoàn. Tự Lực văn đoàn chính thức thành lập năm 1933, gồm có Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, Khái Hưng Trần Khánh Giư, Hoàng ạo Nguyễn Tường Long, Thạch Lam Nguyễn Tường Lân, Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu, Thế Lữ Nguyễn Thứ Lễ. Về sau thêm Xuân Diệu, Trần Tiêu em Khái Hưng" theo tài liệu của Trương Chính. Các nhà văn cộng tác chặt chẽ với văn đoàn này là Trọng Lang, Huy Cận, Thanh Tịnh, oàn Phú Tứ. Cơ quan ngôn luận của văn đoàn là tờ báo Phong hóa, khi Phong hóa bị đóng cửa năm 1936 thì có tờ Ngày nay thay thế. Khi ra đời, Tự Lực văn đoàn có đề ra tôn chỉ mục đích rõ ràng "Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ. Theo chủ nghĩa bình dân, không có tính cách trưởng giả quý phái. Tôn trọng tự do cá nhân. Làm cho người ta biết đạo Khổng không hợp thời nữa. em phương pháp Thái Tây áp dụng vào văn chương An Nam". Sau khi khởi nghĩa Yên Bái vào đêm mồng 9 tháng 2 năm 1930 bị thất bại, một không khí chán nản, u hoài, yếm thế bao trùm đời sống. Thanh niên lớn lên không còn có lý tưởng để phụng sự. Con đường yêu 11 nước bế tắc, họ thoát ly trong những tình cảm cá nhân nhất là yêu đương. Thơ văn ái tình lãng mạng bắt đầu từ đấy. Chính thời 1930 văn học đã đẻ ra những nhân vật điển hình như Tố Tâm, ạm Thủy. Rồi thơ của bà Tương Phố, ông ông Hồ, người chết chồng, kẻ chết vợ, họ khóc lóc nỉ non, khơi mào cho các nhà văn lãng mạn lớp sau đi sâu vào tình yêu để rồi phô diễn thành vần thành điệu. Tự Lực văn đoàn đề ra mục đích tôn chỉ "lúc nào cũng trẻ, yêu đời" là muốn phá tan cái không khí u uất, sầu thảm kia. Trong hoàn cảnh xã hội thời Pháp thuộc, cái nhân văn tiểu tư sản đó tiến bộ nhiều hơn so với cái nhân văn cổ hủ, hẹp hòi thời phong kiến. Trong tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn thanh niên chưa dám đứng lên cứu nước, đang tìm mọi cách thoát ly thực tế đời sống. Vui, cũng để mà quên. ối với họ than vãn là lạc hậu, nói như Nhất Linh trong lời tựa cuốn Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng. Tâm hồn họ "phảng phất vui lẫn buồn tựa như những ngày thu nắng nhạt điểm mưa thưa". Từ sau ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc vào năm 1954, số tác giả viết về hiện thực đô thị tuy không nhiều nhưng thành tựu sáng tác trên đề tài này thì rất đáng chú ý. Năm 1961, Nguyễn Huy Tưởng 1912-1960 hoàn thành tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô. Hà Nội vẫn là địa bàn cho Nguyễn Huy Tưởng dồn tất cả tâm huyết của mình; vẫn là nơi ông gửi gắm những khát vọng sáng tạo của mình để có một Sống mãi với thủ đô mang tầm vóc sử thi về 3 ngày đêm chiến đấu của quân dân Thủ đô. Trong Sống mãi với thủ đô, Nguyễn Huy Tưởng vẫn tiếp tục chọn Hà Nội làm bối cảnh hoạt động cho thế giới nhân vật của mình. Nhưng lần này có khác trước, lần này là một Hà Nội “đa thanh”, phức tạp và nhiều vẻ. Một Hà Nội của nhiều Hà Nội Hà Nội phù hoa, Hà Nội thượng lưu, Hà Nội lao động, Hà Nội lầm than, Hà Nội của mọi lớp người... Miêu tả Hà Nội trong vẻ toàn vẹn và phức tạp của nó, Nguyễn Huy Tưởng đã 12 có những cố gắng lớn để mở rộng thế giới nhân vật. Nhiều trang Sống mãi với thủ đô rạo rực một không khí hùng tráng của sử thi. Đọc truyện, ta khó theo dõi được thời gian, ta bị cuốn đi trong những diễn biến lớn lao, căng thẳng của cuộc đời, tưởng như đã xảy ra hàng năm hàng tháng, nhưng thật ra chỉ có mấy ngày đêm. Không khí loãng tan xao xác dưới những mái trường. Quang cảnh rạo rực chuẩn bị kháng chiến trên từng khu phố, góc nhà, đến buổi chiều ở vườn hoa Cửa Nam, người Hà Nội vẫn vây quanh một anh thợ nặn, sống nốt quang cảnh yên bình cuối cùng khi chung quanh đã ngột lên mùi tanh giá của chiến tranh. Từng chuyến tàu vội vã. Đêm tản cư. Những buổi chia tay. Vụ thảm sát Yên Ninh. Những trận đánh giằng co, căng thẳng ở Bắc Bộ Phủ, ở nhà bưu điện Bờ Hồ... Tiếng cười nói, tiếng súng đạn, tiếng trẻ bán báo, rao hàng, tiếng cười ấm áp, tiếng sinh hoạt của đời... bản hoà tấu của nhiều âm thanh khác nhau đó trong truyện, nghe khác hẳn tiếng gõ quan tài bi thảm trong kịch Những người ở lại. Nguyễn Đình Thi 1924 - 2003 tác giả của bài hát Người Hà Nội và những bài thơ hay về Hà Nội cũng là người sớm đến với văn xuôi. Nói văn xuôi của Nguyễn Đình Thi trước hết là nói về bộ tiểu thuyết Vỡ bờ, 2 tập, ra đời trong khoảng 10 năm 1962 - 1970. Vỡ bờ bao quát một phạm vi hiện thực rộng, gồm hoạt động của nhiều lớp người trên ba địa bàn Hà Nội - Hải Dương - Hải Phòng. Có nông dân, công nhân, trí thức, dân nghèo thành thị; có địa chủ, tư sản, tư sản mại bản, và bọn tay sai Nhật - Pháp; có hoạt động của người cách mạng. Bộ mặt kẻ thù trong cấu kết giữa Pháp - Nhật, trong hoạt động của các tầng lớp địa chủ, tư sản, quan lại - như Nghị Khanh, Huyện Môn, Ích Phong... nhằm tạo ra tình thế tương phản, và làm nên một cái nền tối cho bức tranh... Cố gắng của tác giả Vỡ bờ là ở chỗ, với lượng trang khá lớn, tác giả đã đặt các nhân vật, gồm nhiều loại, trong các mối quan hệ qua lại. Và đó là ưu thế cần phải có khi thế 13 giới nhân vật được mở rộng ra nhiều tầng lớp, và hoạt động trên một không gian rộng, gắn nối với Hà Nội. Hơn 30 năm đất nước trong chiến tranh, đề tài trung tâm của văn học đương nhiên phải là đề tài chiến tranh. Trong số hàng trăm tiểu thuyết, có gắn với đề tài về đô thị đặc biệt là đề tài Hà Nội, có nhân vật là người Hà Nội hoặc có địa bàn hoạt động ở Hà Nội có thể kể đến Vùng trời 3 tập - 1971, 1974, 1980 của Hữu Mai 1926-2007, Những tầm cao 2 tập - 1973, 1977 của Hồ Phương cho đến Lửa từ những ngôi nhà 1977 của Nguyễn Minh Châu 1930-1989... Đây là những cuốn tiểu thuyết in đậm dấu ấn một thời hào hùng và bi tráng của dân tộc, được viết trong cảm hứng khẳng định vẻ đẹp và sức mạnh của nhân dân, dẫu ở vị trí nào cũng đều có tư cách người chiến sĩ... Đề tài đô thị trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 Văn học thời kì này với lăng kính đa chiều, dưới nhiều góc độ quan sát khác nhau, tạo nên những mảng màu chân thực, sống động và đa dạng của cuộc sống muôn mặt đời thường. Dưới ống kính soi chiếu này, con người trong tiểu thuyết Việt Nam hiện lên rất phức tạp, là sự đan cài nhiều tính cách khác nhau trong một con người. Đó là Mùa lá rụng trong vườn 1984 của Ma Văn Kháng; Cuốn gia phả để lại 1988 của Đoàn Lê. Một đi vào những rạn vỡ trong đời sống gia đình trước sự xâm nhập của nền kinh tế thị trường. Một đi vào vấn đề gia tộc và dòng họ với những lủng củng, xung đột, bất an, vẫn là do sự chi phối của đồng tiền. Một tiểu thuyết mang tên Phố 1993 của Chu Lai lấy đề tài từ “phố nhà binh”. Chỉ riêng tên truyện cũng đã gợi nên những góc nhìn mới, những sắc màu lạ trong cái thời đất nước mở cửa... Đến cả những pháo đài kiên cố nhất như “phố nhà binh” cũng không tránh được những rạn vỡ, lung lay để có một hình hài mới cho cả phần xác và phần hồn của nó. Đã đi qua thời kì chiến tranh 14 bom đạn, thời kì hoà bình, đời sống được nâng lên tầm cao mới, con người mới được thể hiện qua tác phẩm với nhiều phương diện khác nhau. Quan niệm về con người trong văn học sau 1986 là một quan niệm đầy biện chứng. Con người ở đây hiện lên chân thực như nó vốn có, không bị thần thánh hoá, lí tưởng hoá. Họ được đặt trong bầu không khí ngổn ngang của hiện thực, sự xô bồ của thời buổi kinh tế thị trường, trước sự bon chen, tranh dành quyền lợi của con người. Chính vì thế, khi đọc tiểu thuyết hôm nay người đọc như nhận diện được chính mình, mọi người xung quanh mình, xã hội mình đang sống một cách trung thực và trọn vẹn hơn, không tô hồng hay bóp méo sự thật, đó là hiện thực vốn có không phải là hiện thực như mình mong muốn. Chính sách mở cửa của Đảng và nhà nước ta đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển một cách mạnh mẽ và thu được nhiều thắng lợi. Vị trí nước ta trên trường quốc tế được nâng cao, đời sống người dân được cải thiện vượt bậc. Đất nước bước sang một thời đại mới với những bước ngoặt to lớn có nhiều cơ hội và thách thức. Tốc độ đô thị hoá diễn ra nhanh chóng làm cho bộ mặt nước ta mang một sắc diện mới. Bên cạnh sự phát triển đó chúng ta phải gánh chịu những hậu quả của nền kinh tế thị trường, tác động đến văn hoá truyền thống và nguy hại hơn nó làm thay đổi lối sống, đạo đức của người Việt Nam. Con người đứng trong vòng xoáy của quá khứ, hiện tại và tương lai, có người không định hướng được cho hành động của mình, sự thực ấy dẫn họ đến với những cú sốc nặng nề về tâm lý. Họ lạc vào vòng quay của cuộc sống mới, sự cạnh tranh của kinh tế hàng hoá và buông mình theo lối sống thực dụng, bất chấp luân lý, nền tảng đạo đức truyền thống bị sa sút nghiêm trọng. Thực trạng phi lý và cay đắng đó đang làm tha hoá cái thế giới tinh thần mà bấy lâu nay ta hằng coi trọng và giữ gìn. Hiện thực đời sống thành thị thời hậu chiến với những vấn đề gai góc cũng được ngòi bút Lê Lựu quan tâm khai thác. Nếu như ở phần hai của Thời 15 xa vắng, quãng đời bi kịch tiếp theo của Sài đã cho thấy phần nào mặt trái của cơ chế quan liêu bao cấp, sự phức tạp xô bồ nơi phố phường thì ở Hai nhà phạm vi và cấp độ phản ánh hiện thực được mở rộng, nâng cao hơn. Tái hiện lại một thời thiếu thốn và khó khăn, Lê Lựu nhìn thấy những bất hợp lý trong cơ chế xã hội. Nhà văn khái quát hóa lối sống thực dụng, ích kỷ đang dần hình thành. Đó còn là sự tấn công mạnh mẽ từ bên ngoài vào “tế bào” gia đình làm tan rã mô hình gia đình truyền thống. Bằng cái nhìn sắc sảo, ráo riết, Lê Lựu phân tích, lý giải những biến động của đời sống xã hội, sự tác động đến số phận con người. Hai nhà mở dần từng ô cửa để thấy được thực chất “ngôi nhà” bên trong, mỗi cánh cửa hé mở là mỗi lần thôi thúc sự dò tìm của người đọc lần thứ nhất mượn lời người chú rể của Linh Anh để tiết lộ quá khứ của cô gái thành thị lọc lõi, hư hỏng; lần thứ hai nhấm nháp từng trang nhật ký của cô ta để vén thêm bức màn bí mật về những hoan lạc của thời con gái buông thả, những cảm giác bức bối khi phải sống với người chồng không như mong ước, những thèm khát dẫn tới cuộc tình vụng trộm và trận đánh ghen bẽ bàng; lần thứ ba bức thư tuyệt mệnh của ông Địa đã xé toang tất cả, làm rõ vì sao lại có cái chết oan uổng của thằng cháu ngoan ngoãn, học giỏi và được tất cả mọi người yêu mến. Không chỉ phê phán sự tha hóa, cái xấu xa, ông cảm nhận thấm thía những lầm lẫn, hạn chế của cả một thời. Nhận thức quá khứ và thực trạng đời sống, tiểu thuyết Lê Lựu còn có khả năng dự báo xu thế phát triển tất yếu và những đổi thay trong xã hội. Có thể nói đây là sự khởi đầu của dòng văn học “tự vấn”, một hướng đi mới của tiểu thuyết nước ta mà trước đó chưa có. Nỗi buồn chiến tranh 1990 của Bảo Ninh là một bổ sung cần thiết cho bức tranh thấm đẫm không khí anh hùng một thời của dân tộc, qua tính cách và số phận một chiến binh, từ là anh lính trinh sát trong chiến tranh, được sống để trở về, rồi trở thành “nhà văn phường” có nơi sinh và nơi ở là Hà Nội. Truyện nhà đó nhà Chu nước mạnh, dân giàu, Bắc Tề Tây Ngụy khởi nghịch ngoài bờ cõi. Chu chủ sai đại tướng Dương Chung làm Nguyên soái con là Dương Lâm làm Tổng quân, cử sáu mươi vạn binh chinh phạt Bắc Tề, Tây Lâm mặt như nhồi phấn, người cao chín thước, quen dùng đôi long bổng nặng ba trăm cân, sức mạnh như sư tử....

doc truyen tieu thuyet đỗ đỗ