🐍 Tề Vật Luận Của Trang Tử

SẢN PHẨM DỰ KIẾN HĐ CỦA THẦY VA TRÒ B. HOẠT ĐỘNG HÌNH THÀNH KIẾN *Cuộc chạy đua vũ trang THỨC MỚI. chuẩn bị cho chiến tranh hạt Hoạt động 1: Tìm Những lý luận bác bỏ mọi hình thức đối lập trên đây của Trang Tử, không thể hiểu theo quan điểm của thế giới chứng nghiệm được, vì trong thế giới chứng nghiệm, giữa vạn vật bao giờ cũng khác nhau giữa cái đẹp với cái xấu, cái thành với cái bại, cái hay với Mạnh Tử (371-289 TCN) Mạnh Tử người nước Trâu (ở Sơn Đông ngày nay) là học trò của Tử Tư (tức Khổng Cấp) cháu nội của Khổng Tử. Ông là người kế thừa và phát triển học thuyết Nho gia thêm một bước. Quan điểm triết học của Mạnh Tử trước hết biểu hiện ở lòng tin vào mệnh trời. Mọi việc ở đời đều do trời quyết định. Quan niệm "Vô vi" trong triết lý nhân sinh quan của Trang Tử còn thể hiện ở chơng Tề vật luận_Đây đợc coi là một chơng quan trọng nhất, chứa nhiều t tởng độc đáo nhất cảu bộ sách. Trang Tử chủ chơng coi mọi vật nh nhau, ngang nhau, không gì hơn, không gì kém, không gì Vậy thì Trang Tử, giấc mơ và con bướm làm bằng chất liệu như nhau. Đấy chính là Tề vật luận vậy. Chất liệu mộng ảo ấy thể hiện trong truyện Phế tích vòng tròn của Borges ở tập Ficciones như sau: Có một phế tích vòng tròn vốn xưa là một ngôi đền bị lửa hủy hoại, giờ đây hầu như chôn lấp trong rừng. Tìm tòi mấu chốt tự: vai chính: Tề Mặc, Tịch Tử Phi, Mộc Mộc ┃ phối hợp diễn: đãi định ┃ cái khác: tác giả, CV, quỳnh phi ===== ☆, Chapter 01. Tề Mặc là mỗ nhân khí tiểu thuyết trang web đại thần cấp tác giả, mấy năm trước bắt đầu viết tiểu thuyết, đến bây Shangji và truyền thuyết về mười chiếc nhẫn (Tên gốc tiếng Anh: Shangji và truyền thuyết về mười chiếc nhẫn) là một bộ phim siêu anh hùng mới của Mỹ dựa trên nhân vật Thường Qi của Marvel Comics, do Marvel Studios sản xuất và Walt Disney Studios Motion Pictures phân phối.Đây là bộ phim thứ 25 trong Vũ trụ Điện ảnh Lão Tử cũng không biện giải quá nhiều mà chỉ chỉ ra khuôn mẫu xã hội "tề vật ngã, tề thị phi, tề sinh tử, tề quý tiện" (tề là ngang nhau, vật và ta, đúng và sai, sống và chết, cao quý và hèn hạ đều như nhau) do Trương Tử Tinh lấy ra từ nền móng tư tưởng của Trang * Nhận xét về vấn đề "ăn mặc chỉnh tề" cụ thể đó là sự đồng bộ, hài hòa giữa quần áo với giày, tất … trong trang phục của con người. - Hai luận điểm chính trong văn bản là gì? * Hai luận điểm chính trong văn bản là: Thứ nhất là trang phục phải phù hợp với K8MaW. Trang Tử Lê Thời Tân dẫn Trang Tử từ Văn Nhất Đa Tề Vật Luận 齊 物 論 của Trang Tử có đoạn 以指喻指之非指 [1], 不若以非指喻指之非指也 [2]; 以馬喻馬之非馬 [3], 不若以非馬喻馬之非馬也 [4]。 天下, 一指也 [5];萬物,一馬也 [6]。 Phiên âm Hán Việt Dĩ “chỉ“ dụ chỉ chi phi chỉ, bất nhược dĩ “phi chỉ“ dụ chỉ chi phi chỉ dã; Dĩ “mã“ dụ mã chi phi mã, bất nhược dĩ “phi mã“ dụ mã chi phi mã dã. Thiên hạ nhất chỉ dã, vạn vật nhất mã dã. Đoạn nhỏ hai câu trên là một nút thắt khó gỡ bậc nhất trong tác phẩm triết học tiêu biểu này của Trang Tử. Nhằm tránh khỏi bị khỏi ngộp thở giữa “rừng chú giải” nhưng lại vẫn có thể tiến lên nâng cao và khái quát hóa được vấn đề, chúng tôi chọn cách trình bày như sau Trước hết chọn và giới dẫn tập trung một cách hiểu mà chúng tôi cho là phù hợp tinh thần cơ bản của Trang Tử – cách hiểu của Văn Nhất Đa.[1] Việc này tránh được lối trình bày dàn hàng ngang những cách chú giải dày đặc trích dẫn, nặng về khảo cứu chữ nghĩa. Sau khi giới dẫn Văn Nhất Đa, chúng tôi tiến hành mở rộng và nâng cao vấn đề dưới góc nhìn nhận thức luận ngôn ngữ học giải cấu trúc. Cắt nghĩa của Văn Nhất Đa 以“指”喻指之非指,次指謂指名之指抽象名詞,末指謂手指之指實物名稱,“指”則兼此二義之名。不若以“非指”喻指之非指也。以“馬”喻馬之非馬,次馬字謂籌馬之馬,今字作碼抽象名詞,末馬字謂牛馬之馬實物名,“馬”則兼此二義之名,不若以“非馬”喻馬之非馬也。天下,一指也;萬物,一馬也。一犹皆也。此指,馬二字俱抽象名詞。[ Tạm dịch “Dĩ “chỉ” dụ chỉ chi phi chỉ chữ “chỉ” thứ hai là nói chỉ trong “sự chỉ tên” danh từ trừu tượng, chữ “chỉ” thứ ba là chữ chỉ trong “thủ chỉ” ngón tay – danh từ chỉ vật thực, còn từ “chỉ” thứ nhất tức chữ “chỉ” in đứng, Văn Nhất Đa đặt trong dấu ngoặc kép – LTT thì gồm cả hai nghĩa đó; Bất nhược dĩ “phi chỉ” dụ chỉ chi phi chỉ dã; Dĩ “mã“ dụ mã chi phi mã, chữ mã thứ hai là nói chữ “mã” trong “trù mã” thẻ để tính toán, ghi số hiệu, ngày nay viết 碼 danh từ trừu tượng, chữ “mã” sau cùng lại là chỉ ngựa trong từ “trâu ngựa” danh từ chỉ vật thực, còn chữ mã đầu tức chữ “mã” in đứng, nhà chú giải đặt trong dấu ngoặc kép – LTT thì kiêm cả hai nghĩa trên. Bất nhược dĩ “phi mã” dụ mã chi phi mã. Thiên Hạ, nhất chỉ dã; Vạn Vật nhất mã dã. Nhất do giai dã.” Trong đoạn Hán văn dẫn trên, cách ngắt câu và cách đánh dấu ngoặc kép đối với câu văn Trang Tử được giữ đúng theo Văn Nhất Đa riêng việc in nghiêng, in đứng và in đậm trong phiên âm Hán Việt như trên là của chúng tôi. Chúng tôi muốn dùng các cách in nghiêng, in đứng, in đậm và in hoa để biểu hiện cách đọc của mình đối với những đoạn văn trong Tề Vật Luận đã được dẫn trong bài viết này. Tôn trọng cách đọc của Văn Nhất Đa, chúng tôi đồng thời cũng chấp nhận sự xác định từ loại của ông đối với các từ trong hai câu này. Như đầu đề công trình “Trang Tử Chương Cú” cho thấy, cách làm của Văn Nhất Đa là – trên cơ sở vận dụng lí luận đồng âm dị tự-dị nghĩa, từ loại học, lần lượt giải thích các từ rồi từng câu văn bản Tề Vật Luận. Trong phân câu [1] ông tập trung cắt nghĩa ba chữ “chỉ”. Đến phân câu [2] tiếp theo, Văn Nhất Đa chỉ chép nó ra mà không giải thích, nhưng ông đã đem hai chữ phi chỉ đặt vào trong dấu ngoặc kép “phi chỉ“. Sau khi giải thích các chữ mã trong phân câu [3] ông chép phân câu [4] ra và không cũng không có giải thích. Văn Nhất Đa cũng không cắt nghĩa trực tiếp hai phân câu [5] và [6], chỉ tập trung giải thích chữ nhất dùng chung trong cả hai phân câu “nhất do giai dã-nhất như “đều là” vậy” Sau này Quách Mạt Nhược rõ ràng cũng có ý thức về vấn đề từ đồng âm khi chú câu văn này của Trang Tử “指是宗旨, 是觀念; 馬是法碼, 是符號” – xem 郭沫若《十批判書 – 莊子的批判》. Có thể nói, dựa hẳn vào ngôn ngữ học, diễn giải của Văn Nhất Đa thực sự giải phóng độc giả Tề Vật Luận ra khỏi vòng rối rắm của huấn hỗ học truyền thống. Đương nhiên Văn Nhất Đa cũng chỉ dừng lại ở ngôn ngữ học truyền thống. Ông chú ý nhiều tới vấn đề đồng âm, dị nghĩa, sở chỉ và năng chỉ của từ khi chú giải đoạn văn Trang Tử. Trong công trình “Trang Tử Nghĩa Sơ” phụ lục của Trang Tử Chương Cú Văn Nhất Đa nói câu Dĩ “chỉ” dụ chỉ chi phi chỉ, bất nhược dĩ “phi chỉ” dụ chỉ chi phi chỉ dã là “nói lấy chữ “chỉ” đồng danh nhưng khác nhau về cái vật thực mà nó chỉ ra, để giảng giải vấn đề danh xưng không phải là bản thân sự vật, làm như vậy không bằng lấy những chữ dị danh không đồng âm dị thực chỉ những sự vật khác nhau giải thích danh từ, tên gọi không phải là vật thực. Cái đồng danh dị thực khiến người ta hay lẫn lộn. Còn những chữ dị danh dị thực thì không như vậy” Nguyên văn 谓以同名异实之“指”字说明名称之非实物,不如别以异名异实之字说明名称之非实物也。同名异实者使人迷误,异名异实则不然。 [2 Giải thích tiếp theo này của ông vô hình trung dường như đã làm hẹp lại tầm rộng của bản thân vấn đề mà ông ít nhiều đã hé mở trong chú giải trước đó. Đoạn văn trên của Tề Vật Luận đương nhiên ít nhiều cũng có phản ánh câu chuyện đặc điểm của Hán ngữ – những đặc điểm sẽ được ý thức rõ ràng hơn trong tư biện triết học. Tuy nhiên chúng tôi nghĩ Trang Tử không phải chỉ nhắm vào mỗi chuyện đồng âm, đồng tự hay chuyện nên biểu đạt tư tưởng bằng một ngôn ngữ khúc triết rõ ràng. Trang Tử cũng không phải chỉ là mượn Tề Vật Luận để bày tỏ thái độ chán ghét các phái “tranh minh” với nhau một cách ồn ào, tranh luận chỉ vì thành kiến hay đơn giản chỉ là vì hơn thua. Đoạn văn trên trong Tề Vật Luận bộc lộ một nhãn quan triết học rộng rãi hơn nhiều. Cách làm của Văn Nhất Đa đơn giản về phương pháp nhưng hàm chứa những gợi ý to lớn về nhận thức luận. Chính vì vậy, chúng tôi thấy cần thiết phải thực hiện một sự mở rộng và nâng cao diễn giải của học giả này. Diễn giải và phát huy Văn Nhất Đa Một điểm rất đáng chú ý trong diễn giải câu văn Tề Vật Luận ở đây là cách đánh dấu nháy “…” lên những chữ-từ nhất định. Như đã nói, đến phân câu [2] Văn Nhất Đa không giải thích, nhưng đem hai chữ phi chỉ đặt vào trong dấu ngoặc kép “phi chỉ“. Chúng tôi cho rằng chỉ như vậy thì ông cũng đã có một sự chú giải đối với câu này. Có thể diễn rộng ý ông rất thành “dùng cái mệnh danh của ngôn ngữ dĩ “chỉ“ để nói nguyên văn “dụ” 喻 – dùng lời để nói rõ, bày tỏ bằng lời, ví dụ câu trong Lã Thị Xuân Thu – phần Ly Vị “ngôn dã, dĩ dụ ý dã. Ngôn ý tương ly, hung dã”. Trong cổ đại Hán ngữ, chữ “dụ” có thể viết bộ “ngôn” 言 mà cũng có thể viết bộ “khẩu” 口 để biểu ý một khái niệm, một hoạt động tư tưởng chữ “chỉ” thứ hai không phải là một sự vật thực chữ “chỉ” thứ ba trong từ “thủ chỉ” – ngón tay thì nhược bằng không dùng “không phải là ngôn ngữ” – “phi chỉ” để thuyết minh, nói rõ ngôn ngữ không phải là chính bản thân sự vật”. Ở đây chúng tôi hiểu “dĩ “phi chỉ” dụ…” ý là “dùng cái không phải là ngôn ngữ để nói rõ…”. Xin đặc biệt chú ý dấu ngoặc kép đánh trên chữ chỉ đầu tiên trong câu văn Trang Tử, Văn Nhất Đa rõ ràng có ý phân biệt các chữ chỉ trong đoạn văn này. Bằng cách đó ông bày tỏ một cách hàm súc cách đọc của mình đối với tư tưởng Trang Tử. Chúng tôi tiến thêm một bước cho rằng ngôn ngữ về một phương diện nhận thức luận nào đó mà nói chính là một cách đánh dấu ngoặc kép lên đối tượng hiện thực khách quan. Và sở dĩ nói bất nhược dĩ “phi mã“ dụ mã chi phi mã dã ấy là vì rốt cuộc “vạn vật nhất mã dã” – thế giới khách quan được diễn đạt trong ngôn ngữ gọi là vạn vật này thực tế đều là kí hiệu “mã“”. Như tuồng để nhấn mạnh tính chỉnh thể hệ thống của một ngôn ngữ “mã“ đối với việc tạo nên một thế giới “vạn vật” – cái thế giới sống trong đó những con người chung dùng “mã kí hiệu” đó, Văn Nhất Đa đã giải thích thêm cho chữ “nhất” – “Nhất do giai dã” “nhất” là “đều là”. Rõ ràng trong câu “dĩ “phi chỉ“…” và “dĩ “phi mã” ….”, phi mã và phi chỉ đều được đặt trong dấu ngoặc kép, chúng tôi xem hai chữ phi chỉ cũng như hai chữ phi mã là liền thành một khối, tức đều là bổ ngữ đối tượng trực tiếp của “dĩ”; Theo tinh thần đó phi mã, phi chỉ trong câu văn Trang Tử đều tương đương với một nhóm danh từ. Chữ chỉ trong khối “phi chỉ” ở đây, theo chúng tôi nên được hiểu là để đang đề cập đến vấn đề ngôn ngữ nó vừa là một danh từ chỉ vật thực ngón tay, vừa là cái sở chỉ signifie, signified hoặc significatum mà cũng là trỏ cái năng chỉ signifiant hoặc signiifer, signifians; Chữ chỉ ở đây là chỉ xưng, chỉ xuất, chỉ thị, lại cũng có thể thông với chữ chỉ trong từ “chỉ dụ” 旨喻/指喻 ; Tương tự chữ mã trong “phi mã” theo chúng tôi cũng nên được lí giải là vừa chỉ một loài động vật bạch mã, mã lực,… mà cũng là “mã hiệu” mật mã, lập mã, mật mã, mã vạch – tóm lại đều đề cập đến chuyện sử dụng ngôn ngữ. Nhân tiện cũng lưu ý rằng, thuật ngữ ngôn ngữ học năng chỉ, sở chỉ vừa dẫn trên, trong tiếng Anh hoặc tiếng Pháp đều có gốc từ sign. Mà sign là chỉ kí hiệu, kí hiệu ngôn ngữ, ngoài ra cũng chỉ động tác làm hiệu, động tác “nói” bằng tay, ví dụ nói sign language – ngôn ngữ cử chỉ [3]. Đến đây tưởng đã có thể diễn rộng Văn Nhất Đa trong trường hợp đọc hiểu đoạn văn Trang Tử “Dùng ngôn ngữ hệ thống kí hiệu gồm hai mặt – chỉnh thể ngữ âm/ngữ nghĩa hoặc nói cụ thể như Trang Tử ở đây, dùng một danh từ kí hiệu bao gồm cái sở chỉ chỉ sự vật và cái năng chỉ hình thành nên ngữ nghĩa để giải thích, cắt nghĩa một khái niệm, một danh xưng không phải chính là bản thân sự vật chú ý quan hệ giữa ngôn ngữ và thế giới khách quan; quan hệ giữa từ và vật – làm một việc như thế chẳng thà dùng không phải là ngôn ngữ hoặc là nói “không dùng ngôn ngữ” – tuy nhiên có thể không dùng ngôn ngữ mà nhận thức được tồn tại hay không – đó là vấn đề tiếp theo trong nhận thức luận Trang Tử, và cũng là một vấn đề lớn của triết học hiện đại khiến người ta hiểu ra một tên gọi, một danh từ không phải là bản thân sự vật.” [4 tr. 35-40] Liên hệ vào trong văn học, chẳng hạn ta có thể nhắc đến Roland Barther khi ông bàn đến vấn đề tự sự lịch sử. Ông nói “Có điều, lời nói vĩnh viễn không thể có được sự vật thực vật quy chiếu ở bên ngoài bản thân nó”. Phân tích ý này của Roland Barther, một học giả nói “Nói cách khác, lời nói về lịch sử trong quá trình hình thành đã làm loạn đi sự chừng mực, đem cái sở chỉ signified xem thành vật qui chiếu refrent. Sự trần thuật lịch sử không thể đạt đến “thế giới chân thực”, vì thế nó chỉ đẻ ra được một thứ “hiệu quả của tính chân thực”. Nó – ít nhất từ thế kỉ XIX lại nay, đem trần thuật đặt định thành cái sở chỉ của thế giới chân thực và thế là đã tạo nên cái hiệu quả đã nói trên… Tự sự lịch sử của “chủ nghĩa hiện thực” kết thúc vòng tuần hoàn mâu thuẫn cấu trúc tự sự thoạt đầu là ninh ở trong cái nồi hư cấu thần thoại và sử thi thời kì đầu sau đó biến thành một sự chứng minh kiêm kí hiệu của bản thân hiện thực” [5 Văn Nhất Đa quay lại với Trang Tử Chúng ta nên biết rằng một danh xưng chẳng qua chỉ là một kí hiệu gọi thành lời, bản thân nó tồn tại trong một ngôn ngữ cụ thể – nó có được ý nghĩa ngữ nghĩa trong một ngôn ngữ nhất định; Trong lúc đó vật thực thì tồn tại trong thế giới khách quan cũng với những ý nghĩa của chính nó; bản thân danh xưng, danh từ không phải là bản thân sự vật; Cũng vậy, ngữ nghĩa của một từ không đồng đẳng với ý nghĩa của sự vật mà từ đó phản ánh. Ngữ nghĩa là tồn tại trong một ngôn ngữ cụ thể, còn ý nghĩa của bản thân sự vật là tồn tại trong hiện thực khách quan, không vì chúng ta dùng thứ tiếng nào gọi nó lên thành từ mà bị thay đổi. Đương nhiên ở đây Tề Vật Luận, có thể Trang Tử còn có ý nói đến hiện tượng “đồng danh dị thực” của tiếng Hán đương thời. Ngôn ngữ một khi được hiểu là công cụ của tư duy, hệ thống kí hiệu, là sự chỉ, là hành động lập mã thì việc dùng chính bản thân nó để phân biệt danh xưng, khái niệm với vật thực – việc đó suy cho cùng đã trở nên thừa mà cũng không giúp ích gì cho một nhận thức luận triệt để. Vật thực tồn tại trong thế giới khách quan, tính cách hiện thực của nó không phụ thuộc vào ý thức ngôn ngữ. Khi con người tư biện trong lòng ngôn ngữ không thể nào khác được về vấn đề từ không phải là bản thân vật, vật không phải là bản thân từ thì, con người dường như bắt đầu cảm thấy một nỗi bế tắc tuyệt vọng, cảm thấy một tình trạng dường như là đang “chạy quanh chạy quẩn” tựa chuyện kiến leo cành cụt cây đa cây đào vậy. Trang Tử nhắc nhở mọi người nên biết là “thiên hạ” “vạn vật” thảy đều là chuyện danh xưng, là vấn đề mệnh danh, tên gọi và khái niệm – tức là vấn đề ngôn ngữ, hoặc nói theo cách nói của Trang Tử – đó chỉ là “nhất chỉ” “nhất mã” mà thôi. “Vạn Vật Nhất Mã dã”. Văn Nhất Đa chú giải “nhất” ở đây là “giai” – đều là. Ông thậm chí còn mở ngoặc nói thêm hai chữ chỉ và mã ở đây đều là danh từ trừu tượng. Theo Trang Tử, phải vượt lên trên ngôn ngữ đạt tới nhận thức trạng thái tồn tại bản-chân-bản-dạng-chưa-từng-bị-phân-cắt-bởi-ý-thức logic – “dĩ vi hữu vật hĩ, nhi vị thuỷ hữu phong dã” tạm dịch thừa nhận tồn tại vạn vật bởi ngôn ngữ, mà biết bản thân tồn tại vật chưa từng bị cầm cố trong ngôn ngữ. Trang Tử yêu cầu siêu việt ngôn ngữ để tiếp cận với Đạo Đạo vừa không thể mô tả bằng ngôn ngữ lại vừa không thể lí giải được bằng ngôn ngữ – “Dĩ vi hữu vật hĩ, nhi mạt sử hữu phong dã”, sách Trang Tử, chương XXV, tiết 11. Đầu tiên, từ chỗ biết được “chỉ chi phi chỉ” “mã chi phi mã” thừa nhận giới hạn nhận thức thế giới quẩn quanh mù mịt trong lòng ngôn ngữ đi đến chỗ nhận thức trở lại được chính bản thân nhận thức – tức là trả lời câu hỏi “chúng ta tại sao lại suy nghĩ/ nói như vậy?”. Ví dụ, trên thực tế chúng ta “chúng ta” ở đây trước hết chỉ – chẳng hạn, những người cùng chung một thứ ngôn ngữ đơn tiết không biến hình thường vẫn có thói quen dùng một danh từ giải thích một khái niệm. Nếu bị hỏi dồn danh từ đó nghĩa là gì, chúng ta thường không do dự chỉ ngay vào vật thực – một cách giản tiện lấy sự vật được biểu đạt bằng cái sở chỉ của danh từ đó đi giải thích bản thân danh từ. Ví dụ bị hỏi “thực vật” là gì, chúng ta đem “cỏ cây” ra trả lời; nếu bị hỏi tiếp “cây là gì”, chúng ta chỉ ngay vào một cây bất kì trong vườn. Thế nhưng cho đến nay, ngôn ngữ học dường như không phải lúc nào cũng chú ý phân biệt một cách rạch ròi nghĩa và ngữ nghĩa. [6 tr. 48-49] Ngữ nghĩa hoặc nói cụ thể nghĩa của từ của chữ, mối quan hệ biểu chỉ – signification và nghĩa, ý nghĩa – sense là hai chuyện khác nhau. Ngữ nghĩa học phải xác định rõ đối tượng của mình. Ý nghĩa, nghĩa thuộc về vật thực. Nghĩa của ngựa, cỏ, ngón tay chẳng hạn được xác định do các nhà sinh vật học, nghĩa của chúng là nhận thức chung của tất cả các ngôn ngữ. Còn việc người Hán viết/gọi 草 [cǎo] phiên âm Hán Việt thảo, người Anh gọi grass – theo Phan Ngọc đó là chuyện hình thức. Còn như ngữ nghĩa của từ tiếng Hán草thì lại được xác định thông qua một loạt thao tác chọn lựa và kết hợp diễn ra trong lòng tiếng Hán. Tức là thông qua đối lập với 草木 thảo mộc cây cỏ, 稻 草 đạo thảo rơm,… mà có được sự xác lập về nghĩa cho từ/chữ 草. Nói một cách khái quát, ngữ nghĩa của một từ ngôn ngữ cụ thể là đặt nó trong trục chọn lựa và kết hợp lịch đại và đương đại mới có thể phân biệt xác lập ra được. 馬 mã với tính cách chỉ vật – nghĩa đó đối với người Anh hay người Hán đều như nhau, nhưng người Hán viết gọi 馬 [mǎ] mà người Anh thì lại định danh thành từ horse. Ngữ nghĩa của từ 馬 hình thành trong sự đối lập với hàng loạt từ khác trong tiếng Hán cũng giống như ngữ nghĩa của từ horse là hình thành trong lòng tiếng Anh vậy. Nhà nghiên cứu tiếng Hán khi muốn định nghĩa nghĩa của từ 馬 đương nhiên sẽ không dắt ra một con ngựa thật trong tự/từ điển việc có thể minh hoạ bằng hình vẽ con ngựa lại là chuyện khác. Nhà nghiên cứu tiếng Hán sẽ thông qua đối lập 馬 với một loạt từ 馬 刀 [mǎ dāo] mã đao, 馬 脚 [mǎ jiǎo] mã cước vết tích để lại 骏 馬 [jùn mǎ] tuấn mã để xác định ngữ nghĩa một từ cụ thể yếu tố 馬 nhất định. Hiểu như vậy, chúng ta chính là đang tiến gần đến câu chuyện “mã chi phi mã”. Quay về với Trang Tử. Chúng ta cần biết rằng trong tiếng Hán một từ đơn – tức một đơn âm tiết viết ra bằng một chữ Hán – nói chung dường như là một hình tượng tức khắc trực tiếp của một sự vật, hành động khách quan. Chỉ dừng lại trên bản thân từ đơn mà tiến hành thao tác tư duy trừu tượng hoá là một việc khó, muốn giang rộng đôi cánh tư duy tư biện thì phải bay lên tầng cao của lĩnh vực từ phức. Trang Tử chính là đã thể hiện một năng lực tư duy tư biện triết học nhuần nhuyễn trong điều kiện mà vốn từ đơn hãy còn chiếm địa vị chủ đạo trong tiếng Hán. Ngoài ra, thông qua sự chú giải của Văn Nhất Đa đối với Tề Vật Luận, trên một mức độ nào đó, chúng ta còn có được một ý thức so sánh ngữ pháp giữa hai truyền thống ngôn ngữ. Tức là nói, lúc đọc một câu văn tiếng Hán, ngoài việc phải lí giải luật tương hợp ngữ pháp nói chung trong các thứ tiếng châu Âu, điều này thể hiện trên biến hoá hình thức của các từ trong câu, chúng ta còn phải chú ý tới luật tương hợp ngữ nghĩa accord tức cái gọi là ngữ pháp ngữ nghĩa. Theo chúng tôi truyền thống chú giải kinh sách của Trung Hoa trên thực tế chính là bỏ công sức rất nhiều trên phương diện này. Thực khó mà xác quyết một bề rằng Trang Tử có hay không một ý thức tự giác hoàn toàn về ngôn ngữ như vậy, nhưng việc đọc hiểu đoạn trích “phi chỉ-phi mã” từ giác độ ngôn ngữ học cấu trúc luận như trên dường như có thể giúp ta phỏng đoán rằng tác giả Tề Vật Luận có suy tính đến bản chất của ngôn ngữ nói chung và những đặc điểm của tiếng mẹ đẻ nói riêng. Trang tử có lẽ là đã tính toán tới việc những đặc điểm đó sẽ đem đến những điều kiện như thế nào cho sự tư biện triết học đương thời. Hoàn toàn có thể đặt vấn đề Trang Tử đã thực sự đối diện với câu hỏi ngôn ngữ rốt cuộc có thể giúp chúng ta tiến gần tới Đạo được hay không? Ngôn ngữ có giúp chúng ta thống nhất được với vũ trụ bản nguyên hay ngược lại, nó khiến cho con người chia cắt với tự nhiên, con người chia cắt với con người? Cho đến nay đó vẫn là câu hỏi chung cho cả nền triết học hiện đại. Chúng tôi mạo muội cho rằng Dĩ “mã“ dụ mã chi phi mã đằng sau lối biểu đạt này có lẽ ẩn tàng một ý thức độc đáo của nhà triết học cổ đại Trung Hoa về mối quan hệ giữa ngữ nghĩa và vật thực khách quan. Còn mệnh đề tiếp theo Bất nhược dĩ “phi mã“ dụ mã chi phi mã thì chính là đã tiến thêm một bước ý thức về tình trạng “lực bất tòng tâm” của ngôn ngữ trong tư cách là một công cụ của nhận thức. Cái công cụ của tư duy con người, cái công cụ của đối thoại tranh luận này, rốt cuộc có thể đưa con người huyên thuyên nhập mình vào Đại Đạo được hay không? Đối với vấn đề đó, Trang Tử dường như đã biểu hiện một thái độ cực chẳng đã. Chính điều này – ý thức về ngôn ngữ của Trang Tử mới chính là điểm căn bản trong hoài nghi luận đặc sắc của ông. Hiểu được điều đó chúng ta mối thấy được mức độ sâu sắc, sự triệt để cũng như tính hiện đại của nhận thức luận Trang Tử. Trong quá trình nhận thức thế giới bằng ngôn ngữ, Trang Tử dường như cũng đã thấy được biện chứng pháp của nhận thức luận khách quan. Nói một cách đơn giản, có sự tồn tại của hai thế giới một thế giới của vật thực khách quan ngón tay trên bàn tay – 手 指 thủ chỉ, con ngựa – 馬 mã mà chúng ta nuôi… chính là thuộc về thế giới này, cả hành động giơ ngón tay chỉ vào con ngựa và nói câu liên quan đến con ngựa của chúng ta cũng là ở trong thế giới khách quan này và lại còn một thế giới nữa – thế giới của “指” [zhǐ] , “碼” [mǎ] viết/nói – tức là thế giới của ngôn ngữ. Thế giới của ngôn ngữ muốn và cũng tự cho mình là có thể bao trùm và chứa đựng được tất thảy ngôi nhà của hữu thể – Heidegger, giống như Trang Tử mô tả “thiên hạ nhất chỉ dã, vạn vật nhất mã dã”. Tại đây, chúng ta có thể suy diễn thêm một bước thiên hạ/vạn vật hoặc nói cách khác cái thế giới được nhận thức này – bao gồm tất cả mọi thứ mà con người gọi lên bằng từ ngữ, trừu tượng thành khái niệm – chính là được hình thành và cố định lại trong quá trình ý thức đến, gọi tên lên, nói/viết ra. Chúng tôi cho rằng trong đoạn văn của Trang Tử, “thiên hạ” và “chỉ” chính là nghiêng về chỉ mặt chủ thể con người, còn “vạn vật” và “mã” thì nghiêng về nhấn mạnh mặt đối tượng sự vật, riêng “nhất” thì ngụ ý quan hệ mật thiết thống nhất giữa hai phương diện đó trên. Nhà triết học Trần Đức Thảo những năm 40 của thế kỉ XX, khi thảo luận vấn đề nguồn gốc của ý thức và ngôn ngữ đã từng đặc biệt nhấn mạnh tác dụng của hành vi trỏ con mồi và chỉ vào nhau trong săn bắn tập thể đối với việc sản sinh ý thức và ngôn ngữ của bầy người nguyên thuỷ Trần Đức Thảo, Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức, hoá Thông tin, Đoàn Văn Chúc dịch từ nguyên bản tiếng Pháp. Gần đây, từ một góc độ khác, cũng có người nêu câu hỏi thú vị “Khi mặt trăng không bị người ta chỉ ra, nó nguyên văn dùng cả hai đại từ giống cái và giống đực他/她; Thông thường tiếng Hán dùng 它- nó “giống trung – chỉ vật” có tồn tại hay không?” Nói tóm lại đây chính là một sự mô tả mối quan hệ giữa con người – ngôn ngữ – vạn vật, một mối quan hệ đặt trong bối cảnh vũ trụ, hoặc như cách nói của Lão-Trang, đặt trong sự biểu hiện cụ thể sinh động của Đại Đạo. Ngày nay nhìn lại với vài ba từ như “duy tâm” “duy vật” hay “siêu hình” thực khó mà khẳng định rõ thực chất tư tưởng Trang tử. Tuy vậy gắn liền vấn đề này với ý thức của Trang tử về ngôn ngữ bộc lộ ra ở Tề Vật Luận ta có thể thấy được phần nào bản chất tư tưởng triết học của ông. Bản chất đó gắn liền với quan niệm về một “Đại Đạo” vô thuỷ vô chung, vượt lên trên cái gọi là “in the beginning was the Word”. Trang Tử nói “Phu đại Đạo bất xưng, đại biện bất ngôn, … … Đạo chiếu nhi bất đạo, ngôn biện nhi bất cập” Tạm dịch Đại Đạo là vô ngôn, sự tham biện lớn thì vô ngữ, … … Đạo mà giảng giải ra thì không phải là Đạo, ngôn biện thì bất cập – Tề Vật Luận, đoạn V [7 Kết từ Chúng tôi tin rằng không phải ngẫu nhiên mà Trang Tử khi biểu đạt tư biện triết học của mình về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và hiện thực khách quan, lại cố tình chọn đúng các chữ “chỉ”, “mã”, “thiên địa”, “vạn vật”, “nhất”. Đây hoàn toàn là xuất phát từ một dụng ý triết học sâu sắc chứ không phải là câu chuyện chơi chữ hay đơn giản chỉ là đùa bỡn độc giả hoặc chỉ nhắm vào một cuộc luận chiến cụ thể nào đó, ví dụ cuộc tranh luận “hắc mã bạch mã” với phái Duy Danh đương thời. Đến nay chú giải Trang Tử nói chung, Tề Vật Luận nói riêng đã chất chồng đến độ để tổng kết đã phải riêng một công trình. Bài viết này như đã nói từ đầu chỉ là mạnh dạn chọn lấy một chú giải phù hợp quan điểm cá nhân, tập trung đào sâu một tư tưởng. Có thể xem bài này như là một chú giải đối chú giải, hoặc nói chính xác hơn – xuyên qua một chú giải để tái thức nhận vấn đề trong bối cảnh nhận thức mới – bối cảnh giải cấu trúc luận triết học ngôn ngữ học. Đặt trong bối cảnh đó ta có thể thấy nhận thức Trang Tử về quan hệ ngôn ngữ-hiện thực biểu thị một sức mạnh tư biện xuất sắc như thế nào.[2] Thiên Tân 2002-2012 Hà Nội Tài liệu tham khảo [1] 聞一多全集, 莊子篇 – 莊子章句 – 齊物論, 湖北人民出版社, 1993 Văn Nhất Đa Toàn Tập Phần Tề Vật Luận trong Trang Tử Chương Cú thuộc Trang Tử Thiên, Hồ Bắc Nhân dân Xuất bản Xã, 1993 [2] 聞一多全集, 莊子篇 – 莊子章句 -莊子義疏, 湖北人民出版社, 1993 Văn Nhất Đa Toàn Tập Phần Trang Tử Nghĩa Sớ trong Trang Tử Chương Cú thuộc Trang Tử Thiên Hồ Bắc Nhân dân Xuất bản Xã, 1993 [3] 英汉语言学词汇 An English-Chinese lexicon of linguistics, 商务印书馆, 2000 Hán Anh Ngôn ngữ học Từ vựng, Thương vụ Ấn thư Quán, 2000 [4] Lê Thời Tân, “Đạo gia và ngôn ngữ học-triết học hiện đại vài điểm suy nghĩ nhân phân tích một câu nói của Trang Tử”, Tạp chí Hợp Lưu, số 101, 7&8/2008 [5] 新 叙 事 學, 北 京 大 學 出 版 社 Tân tự sự học, Bắc Kinh Đại học xuất bản xã, 2002 [6] Phan Ngọc, Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và chữa lỗi chính tả, niên, 2000 [7] Lê Thời Tân, “Logos Ngữ Âm Trung Tâm luận của Phương Tây và Đại Đạo Vô Ngôn của Trung Hoa – Liên hệ Lão Trang và – vài suy nghĩ về triết học ngôn ngữ học giải cấu trúc”, Tạp chí Ngôn Ngữ, số 3 274, 3/2012 Chú thích [1] Văn Nhất Đa 闻 一 多 Wen Yiduo 1899-1946, nhà thơ và là học giả lớn của Trung Quốc. Ông là người có công lớn trong việc nghiên cứu Chu Dịch, Thi Kinh, Trang Tử và Sở Từ. [2] Bài viết này là phần đầu của một tiểu luận trình bày tại một seminar kết thúc học phần trong chương trình nghiên cứu sinh tại Đại học Nam Khai 南開大學Nankai University năm 2002. Tiểu luận được viết lại bằng tiếng Việt và được công bố trên Hợp Lưu số tháng 7&8/2008 nhan đề Đạo gia và ngôn ngữ học triết học hiện đại – Vài điểm suy nghĩ nhân phân tích một câu nói của Trang Tử. Nửa sau của tiểu luận này chính là bài “Logos Ngữ Âm Trung Tâm luận của Phương Tây và Đại Đạo Vô Ngôn của Trung Hoa Liên hệ Lão Trang và – vài suy nghĩ về triết học ngôn ngữ học giải cấu trúc”, Tạp chí Ngôn Ngữ, số 3 274, 3/2012 Trang Tử có tên là Mông Lại, Mông Trang hay Mông Tẩu, là một triết gia và tác gia Đạo giáo. Tên thật của ông là Trang Chu và tác phẩm của ông sau đều được gọi là Trang Tử. Ông sống vào thời Chiến Quốc, thời kỳ đỉnh cao của các tư tưởng triết học Trung Hoa với Bách Gia Chư Tử. Cũng như Lão Tử, tư liệu sớm nhất chép về Trang Tử là ở bộ Sử ký của Tư Mã Thiên. Sử gia Tư Mã Thiên viết về Trang Tử khá vắn tắt “Trang tử, người đất Mông, tên Chu, làm quan lại ở Vườn Sơn Tất Viên” sau đó sống ẩn dật cho đến cuối đời. Nhưng điều chắc chắn là Trang Tử sống cùng thời với Mạnh Tử và Huệ Thi thời Lương Huệ Vương và Tề Tuyên Vương. Đất Mông được xác định nằm trong đất Tống, thuộc tỉnh Hà Nam Trung Quốc ngày nay. Trang Tử là một trong những nhà tư tưởng đặc biệt vào loại hạng nhất thời ấy, rất giỏi kể chuyện, có sức tưởng tượng vô cùng phong phú. Cũng theo Tư Mã Thiên, Trang Tử là tác giả bộ Nam Hoa kinh gồm hơn mười vạn câu thập dư vạn ngôn để châm biếm cái học của Khổng Tử và xiển minh học thuật của Lão Tử. Miêu tả tính chất thoát tục của Trang, Sử ký Tư Mã Thiên có đoạn viết Uy vương nước Sở nghe nói Trang Chu là bậc hiền tài bèn sai sứ đem vàng lụa đến mời đón hứa cho làm tướng. Trang Chu cười nói với sứ giả rằng “Nghìn vàng là lợi to, khanh tướng là ngôi quý đấy. Nhưng ông không thấy con bò lúc tế giao hay sao? Nó được ăn mấy năm, được mặc đồ vóc thêu để đưa vào nhà thái miếu. Lúc bấy giờ, muốn làm con lợn nhỏ có được không ? Ông đi ngay cho, đừng làm bẩn đến ta. Ta chỉ chơi đùa trong nơi ngòi vũng để tự vui, không để cho kẻ có nước trói buộc, trọn đời không ra làm quan để thoả chí ta.” Nguyên văn Hán-Việt Thiên kim trọng lợi, khanh tướng tôn vị dã. Tử độc bất kiến giao tế chi hỉ ngưu hồ? Dưỡng thực chi sổ tuế, y dĩ văn tú, dĩ nhập Thái miếu. Đương thị chi thời, tuy dục vi cô đồn, khởi hà đắc hồ? Tử cức khứ, vô ô ngã, ngã ninh du hí ô trọc chi trung tự khoái. Chí khí của bậc hiền triết Trang Tử cũng giống như căn bản nền tảng tư tưởng Đạo gia ẩn dật mà khoáng đạt, quay trở về cuộc sống hòa hợp với tự nhiên, không muốn tham dự vào tranh quyền đoạt lợi, xa lánh những hệ lụy cuộc đời. Gần như đối lập với đạo Khổng mang bản thể trần tục, ưa thực tế, trọng thực nghiệm và đặc biệt tôn trọng chủ nghĩa nhân văn, Trang Tử kế tiếp truyền thống tư tưởng của Lão Tử, phát triển thành một hệ phái mà sau này người ta thường gọi một cách vắn tắt là Lão-Trang. Khác với Lão Tử cuối cùng vì chán ngán xã hội Trung Hoa đương thời đã vượt cửa ải Hàm Cốc, mất tích về phương Tây; với Trang Tử, người đời thường nhắc đến “Trang Chu mộng hồ điệp” như một huyền thoại. Nam Hoa chân kinh Theo Từ điển Thành ngữ Trung Quốc thì Nam Hoa là tên một hòn núi ở Tào Châu thuộc nước Tống thời xưa. Tương truyền rằng, khi Trang Tử đến ở ẩn nơi chân núi Nam Hoa, ông đem hết tinh hoa của Đạo giáo của Lão Tử viết thành bộ sách, lấy tên núi Nam Hoa mà đặt, gọi là Nam Hoa kinh, đời sau người ta gọi là “sách Trang Tử”. Văn chương trong Nam Hoa kinh rất có tiết tấu, nhiều câu dùng phép biền ngẫu, lời văn luôn luôn bóng bẩy, trôi chảy, ảnh hưởng rất lớn đến các thi nhân đời sau như Kê Khang, Nguyễn Tịch, Sơn Đào,… và ngay cả đời nhà Đường như Lý Bạch, đời nhà Tống như Tô Đông Pha. Nam Hoa kinh, theo sách Hán thư Nghệ văn chí, gồm 55 thiên, nhưng ngày nay còn được 33 thiên. Cũng theo truyền thuyết là do Quách Tượng san định và sau này sắp xếp đặt tên Thiên Chương. Không ai biết được rằng quá trình sắp xếp, san định ấy đã làm tổn thất 19 chương hay do đã thất lạc từ trước. Câu hỏi này thật khó giải đáp vì bản hiện nay được hoàn chỉnh vào đời nhà Tấn thế kỷ thứ 3, cách xa Trang đà hơn 500 năm. Các bản dịch Nam Hoa kinh tương đối phổ biến ở Việt Nam hiện nay là của Nhượng Tống, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Hiến Lê và Nguyễn Tôn Nhan. Mỗi dịch giả một văn cách, phiêu diêu có, cao nhã có nhưng cốt yếu thì chỗ nhất quán trong tư tưởng của Trang Chu vẫn được tuyệt chú. Nam Hoa kinh hay còn gọi là Nam Hoa chân kinh gồm ba phần Nội thiên – gồm 7 thiên có tựa đề là Tiêu dao du, Tề vật luận, Dưỡng sinh chủ, Nhân gian thế, Đức sung phù, Đại tôn sư, Ứng đế vương. Ngoại thiên – gồm 15 thiên có tựa đề là Biền mẫu, Mã đề, Khứ cự, Tại hựu, Thiên địa, Thiên đạo, Thiên vận, Khắc ý, Thiện tính, Thu thủy, Chí lạc, Đạt sinh, Sơn mộc, Điền tử phương, Tri bắc du. Tạp thiên – gồm 11 thiên Canh tang sở, Từ vô quỷ, Tắc dương, Ngoại vật, Ngụ ngôn, Nhượng vương, Đạo chích, Thuyết kiếm, Ngư phủ, Liệt ngự khấu, Thiên hạ. Cao đài từ điển [1] cho biết theo nguồn Trang Tử tinh hoa có 5 nhà làm sách chú thích Nam Hoa kinh, nhưng số thiên của mỗi nhà chú thích lại khác nhau Bản chú thích của Tư Mã Bưu, 21 quyển, 52 thiên. Nội thiên có 7, Ngoại thiên có 28 và Tạp thiên có 14, Giải thuyết có 3 thiên. Bản chú nầy hiện nay đã thất lạc. Bản chú của Mạnh Thị, 18 quyển 52 thiên. Bản nầy cũng bị thất lạc. Bản chú của Thôi Soạn, 10 quyển 27 thiên. Nội thiên có 7, Ngoại thiên có 20. Quyển sách nầy cũng đã mất. Bản chú của Hướng Tú, 20 quyển 26 thiên, không có Tạp thiên. Bản nầy cũng đã mất. Bản chú của Quách Tượng, 33 quyển 33 thiên. Nội thiên có 7, Ngoại thiên có 15, Tạp thiên có 11. Bản nầy hiện còn nhưng sửa lại còn 10 quyển. Về sau có Tiêu Hoằng làm ra pho sách Trang Tử Dực, gom góp các lời chú giải của những người trước, từ Quách Tượng trở đi, có lối 22 người. Có thể nói đây là một pho tạp chú rộng rãi và đầy đủ, rồi phần sau lại có phụ thêm phần Trang Tử Khuyết Ngộ, gom góp những chỗ sai biệt từ cuốn Nam Hoa Kinh Giải của Lục Cảnh Ngưu đời Tống đến các tài liệu trong Sử Ký, sách Trang Tử Luận của Nguyễn Tịch, Vương An Thạch, sách Trang Tử Từ Đường Ký của Tô Đông Pha,… Tóm lại, hầu hết các sách của các học giả nghiên cứu về Trang Tử đều được Tiêu Hoằng đọc và trích lục đầy đủ. Căn cứ vào văn mạch của Trang Tử, chỉ có phần Nội thiên là biểu thị được cái chỗ trọng yếu của học thuyết của Trang Tử; còn Ngoại thiên và Tạp thiên thì rất rời rạc, chỉ bàn đi bàn lại những tư tưởng đã phô diễn trong Nội thiên mà thôi. Riêng Tạp thiên bị xem là văn phong bác tạp không thuần nhất, thậm chí có nhiều chương bị coi là vụng về thô thiển như chương Đạo chích, Ngư phủ, tư tưởng tạp loạn, chê bai Khổng Tử một cách vụng về. Tư tưởng triết học Kế thừa truyền thống của triết học cổ Trung Quốc, nguyên tắc trình bày quan điểm triết học của Trang Tử là “có lời vì ý, được ý quên lời”. Vì vậy, tư tưởng triết học của ông được biểu hiện một cách đơn sơ lại huyền hoặc, nửa sáng, nửa tối, cảm nhận được nhưng không thể diễn đạt bằng lời. “Nó giống như một bức tranh mộc mạc, đường nét đơn sơ, nhưng lại chứa đựng tất cả vì tất cả đang biến động, biến hóa như rồng uốn lượn, cuộn mình tan lẫn trong mây”[2]. Trang Tử – mặc dù rất có công trong việc mài dũa viên ngọc “đạo” của Lão Tử nhưng hết sức đề cao sự thực hành bằng chính bản thân cuộc sống theo “đạo” nguồn sống, đạo sống hơn là việc suy ngẫm nhưng triết lý thâm trầm về đạo. Sự gợi mở trong cách cảm nhận về học thuyết của mình khiến cho Nam hoa chân kinh giữ được khoảng trống sáng tạo cho nhiều thế hệ độc giả. Có thể hiểu một cách khái lược tư tưởng triết học của Trang Tử như sau Vô danh. Tử viết “Đạo chẳng thể nghe được, nghe được không phải là nó. Đạo chẳng thể thấy được, thấy được không phải là nó. Làm sao lấy trí mà hiểu được cái hình dung của cái không hình dung được? Vậy không nên đặt tên cho đạo” Tri bắc du. Khác với học thuyết Chính danh và đường lối hữu vi của Khổng Tử, ông cho rằng đạo không thể diễn đạt bằng lời, “Duy Kỳ vì ham mê, muốn tỏ rõ nó nên suốt đời mờ tối” Tề vật luận còn “phần tinh túy của chí đạo thì mờ mịt, huyền ảo. Chỗ rất mực của đạo thì lặng hẳn, tối ráo” Tại hựu. Vô thường. Trạng thái vận động, không ngừng biến đổi của vũ trụ và vạn vật chính là “sự sống” của đạo. Thiên hạ có đoạn viết rất hay về nội dung cốt lõi trong tư tưởng này của ông khi đem so sánh đạo với con rồng uốn lượn, luôn luôn biến đổi “Thoắt lặng không hình, biến hóa không thường, chết chăng, sống chăng? Muôn vật la liệt, không có gì đáng là nơi để ta về”. Đây cũng là chỗ khác biệt giữa Lão và Trang. Trong Đạo đức kinh của Lão Tử luôn luôn thể hiện các mặt đối lập trong đạo âm-dương, cương-nhu, sống-chết…, với Trang Tử, tất cả chỉ có một – trong sự biến hóa không ngưng nghỉ. Đông Quách Tử hỏi Trang Tử – “Đạo ở đâu?” -Không chỗ nào không có. “Xin chỉ ra mới được?” -Trong con kiến. Trong cọng cỏ. Trong miếng sành vỡ…. Lời của ông chẳng đi đến đâu cả. Đừng chỉ hẳn vào vật nào có nó đạo, vì không có vật nào là không có nó. Đạo lớn là thế. Tri bắc du Đức Giống như đức của Mặt Trời là sáng và nóng, đức của nước là lạnh và tuôn chảy, của gió là mát và dịch chuyển, đức của con người cũng là một trạng thái tự nhiên không ràng buộc với bất kỳ mối quan hệ xã hội nào. “Đức của người thọ ở nơi đất trời, hãy biết gìn giữ nó tột cùng, đừng làm hư hại nó” Dưỡng sinh chủ. Vì đức tự nhiên như “bò ngựa bốn chân thì thuộc về trời, còn thòng cổ ngựa, xâu cổ bò là thuộc về người” nên đức có đời sống độc lập, vận động theo lẽ lớn của tạo hóa và đạo. Vô vi Từ các quan điểm triết học nêu trên, tư tưởng nhân sinh căn bản trong Nam hoa kinh của Trang Tử là vô vi – mẫu mực sống của các bậc thánh nhân – đứng ở chỗ khôn lường mà chơi ở miền không có. Vô vi hành động theo lẽ tự nhiên nhi nhiên, vô tư, hồn nhiên như trẻ thơ “giữ tâm điềm đạm, khí điềm tĩnh, thuận theo tự nhiên mà không theo ý riêng của mình” Ứng đế vương. Cũng giống như Vô vi của Lão Tử là “vô vi nhi vô bất vi” nhưng mới hơn ở Trang Tử là không thái quá và biết phá bỏ những gì cản trở cho sự phát triển tự nhiên của vạn vật, làm cho mọi vật đều được tự do, bình đẳng sống theo đúng bản tính, sở thích tự nhiên của nó. Tiêu dao du cùng Trang Tử Tiêu dao tiêu diêu là tự do tự tại, du là ngao du. Tiêu dao du có nghĩa là ngao du, rong chơi tự do tự tại. Những câu chuyện trong Tiêu dao du vận dụng tối đa nghệ thuật tưởng tượng, hư cấu vào ý thức sáng tác, kết hợp với cơ sở sự thật. Biệt tài kể chuyện ngụ ngôn của Trang Tử khiến ông không những xứng đáng là một triết gia mà còn là một tác gia văn học với hàng ngàn tỉ dụ trong văn chương. Vì thế, ông còn được xem là ông tổ của phái văn học u mặc trào lộng của nước Tàu từ xưa đến nay. Văn trong Nam hoa kinh toàn dùng lối nghịch thuyết, tức là lối nói nghịch để bổ túc những chân lý phiến diện của người đời. Bởi vậy, văn chương trong Nam Hoa chân kinh rất ngang dọc, phóng túng, khi nói xuôi, khi nói ngược, nói Đông để đả kích phía Tây, nói phải để tỏ thêm cái quấy, nói quấy để bổ túc cho cái phải. Thiên thứ nhất của Nam Hoa kinh, Tiêu dao du kể rằng “Biển bắc có con cá tên là Côn, lớn không biết mấy ngàn dặm. Nó biến thành con chim tên là Bằng, lưng của con chim Bằng lớn cũng không biết mấy ngàn dặm. Khi con chim Bằng ấy vỗ cánh bay lên cao, hai cánh nó lớn như đám mây che cả bầu trời. Loài chim ấy, khi biển động, sóng lớn gầm gào, nó liền chuyển về biển nam. Chỗ biển nam ấy là một cái ao vĩ đại do thiên nhiên tạo thành”. “Một con ve và một con chim nhỏ cười chim Bằng rằng Ta cố sức bay lên cây du, có lúc bay không tới nơi đã rơi xuống cũng chẳng sao, việc gì cần phải bay cao chín vạn dặm đến biển Nam làm gì?’. Người đi đến cánh đồng ngoài chân thành, chỉ cần chuẩn bị ba bữa cơm là đủ quay về, bụng vẫn còn no, còn nếu muốn đi xa nơi trăm dặm thì cần chuẩn bị lương thực một ngày, nếu muốn đi xa ngàn dặm, cần chuẩn bị lương thực ba tháng. Hai con vật nhỏ bé ấy mà biết cái gì?” … Đem loài chim Bằng so với loài côn trùng bé nhỏ con Côn; chỗ này tư tưởng Trang gặp điểm “bất nhị” của Phật học. Chim Bằng lớn có thú vui lưng chở trời xanh, chim Côn nhỏ có niềm hân hoan chưa bay cao mà đã rơi xuống, suy cho cùng, lớn-nhỏ chỉ là cái bên ngoài, còn tự tại thung dung thì không tách bạch. Tiêu dao du, ngay từ những dòng đầu đã tỏ cái chí “du tử” của tác giả. Khác với chỗ đắc đạo của Lão Tử “rụt rè như mùa đông lội qua sông, nghỉ ngơi như sợ láng giềng bốn bên, nghiêm chỉnh như một người khách”, chỗ phóng nhiệm của Trang Tử bày biện khoáng đạt, rộng rãi như con chim Bằng bay qua biển Nam… Học thuyết của Trang Tử trong Nam Hoa chân kinh, vì thế trở nên vô cùng sinh động, kiến chiếu dưới nhãn quan của một hành giả đắc đạo “không hành, tuyệt đích”. Những lời bình về Trang Tử Sống trong thời kỳ lịch sử có nhiều biến động dữ dội, Trang Tử được coi là nhà tư tưởng lớn về đạo học trong triết học cổ Trung Quốc. Một người “thà chịu kéo lê cái đuôi trong bùn” để giữ nhân cách và bản lĩnh, tâm hồn thanh sạch của mình giữa vô vàn tạp loạn xã hội. Cuộc đời của Trang Tử gắn liền với giấc mơ bướm huyền thoại, gắn với vô số những trùng ngôn, ngụ ngôn sinh động, hấp dẫn. Các học giả khi nghiên cứu về Trang Tử đều cho rằng “khó có thể hiểu và trình bày đầy đủ, hệ thống triết học của ông”.[3] Tư Mã Thiên viết “Sách ông viết có hơn mười vạn chữ, đại để đều là ngụ ngôn. Văn ông viết khéo, lời lẽ thứ lớp, chỉ việt tả tài tình để bài bác bọn Nho-Mặc. Đương thời những bậc túc học cũng không sao cãi để gỡ lấy mình cho nổi. Lời văn phóng túng mênh mông, cầu lấy sự ý thích của mình mà thôi. Cho nên các bậc vương công không ai biết nổi ông là người thế nào”[4] Thanh Hán đời Tống lại cho rằng “Cần lấy Trang Tử mà giải Trang Tử, tuyệt không tin vào ai, mà dưới cũng không bắt ai theo Trang Tử”[5]. Đời Thanh, Lâm Tây Trọng quan niệm “Cần lấy Trang Tử để giải thích Trang Tử, nhưng phải hiểu được cả sở trường Nho-Phật-Đạo mới nên đọc sách này”[5] Về Trang Tử, nhìn từ góc độ triết học, tư tưởng học hay văn học đều thấy được sự phong phú nổi trội trong cách thức biểu hiện một Đạo gia “phóng nhiệm”, “tài tử”, “ngông” và đầy sáng tạo. Khái niệm chủ yếu “Không cốc túc âm” Lũng rỗng, tiếng chân – Trang Tử viết trong chương Từ Vô Quỷ 徐無鬼 Phu đào hư không giả… văn nhân túc âm cung nhiên nhi hỉ hỹ 夫逃虛空者…聞人足音跫然而喜矣, nghĩa là “Phàm người chạy trốn vào chỗ trống không, nghe có tiếng chân người đi thì tất vui vậy”. “Minh kính chỉ thủy” – Trang Tử viết trong chương Đức Sung Phù 德充符 Bồ đề bản vô thụ, minh kính diệc phi đài, Nhân mạc giám ư lưu thủy, nhi giám ư chỉ thủy 菩提本無樹、明鏡亦非臺…人莫鑑於流水、而鑑於止水, có nghĩa là “Bồ đề vốn không phải là cây, gương sáng cũng không phải là đài. Người chẳng soi ở nước chảy, mà soi ở nước dừng”. Thư mục Về tác giả “Truyện Trang Tử” trong Sử ký Tư Mã Thiên, Nhữ Thành dịch, Hà Nội Nhà xuất bản Văn học, 1988 Các bản dịch tác phẩm Trang Tử, Nam Hoa Kinh, tựa, tổng luận và lời giải của Lâm Tây Trọng, bản dịch và lời bàn của Nhượng Tống, Hà Nội Nhà xuất bản Tân Việt, 1944; tái bản Hà Nội Nhà xuất bản Văn học & Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2001. Trang tử, Nam Hoa Kinh, Thu Giang Nguyễn Duy Cần dịch và bình chú, Sài Gòn Nhà sách Khai Trí xb, 1963; tái bản, Nhà xuất bản Hà Nội, 1992. Trang tử và Nam Hoa Kinh, Nguyễn Hiến Lê giới thiệu và chú dịch, Hà Nội Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 1994. Trang Tử, Nam Hoa Kinh, Nguyễn Tôn Nhan dịch, 1999. Về triết học của Trang tử Thu Giang Nguyễn Duy Cần, Trang Tử tinh hoa, 1956, in lần thứ 2, 1963. Phùng Hữu Lan, Đại cương triết học sử Trung Quốc, Chương X “Giai đoạn thứ ba của Đạo gia Trang tử”. Nguyễn Văn Dương dịch, Sài Gòn Ban Tu thư Viện Đại học Vạn Hạnh, 1968; tái bản Hà Nội Nhà xuất bản Thanh Niên, 1999 Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc, Hà Nội Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2004 Trang Tử Nam Hoa Kinh Lược dịch Nội Thiên Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ Chương 1 Tìm Hiểu về Lão, Trang Chương 2 Trang Tử và Nam Hoa Kinh Trang Sinh hiểu mộng mê hồ điệp... Cách đây hơn một năm tôi đã có dịp thuyết trình về Lão Tử và Đạo đức kinh. Bài đó đã được đăng trong Cao Đài giáo lý, số Tân niên, Ất Mẹo. Vì thế nên, ngày hôm nay, tôi tiếp tục bàn về Trang Tử với Nam Hoa Kinh. Tôi sẽ không khai thác khía cạnh văn chương của Trang. Tôi cũng không lưu tâm đến bút pháp của Trang, đến tài biện bác của Trang. Bình Trang, tôi thủy chung chỉ muốn làm nổi bật lên những phương thức mà Trang đã dùng để đi lên siêu việt, để giúp mọi người sau này nhìn thấy rõ con đường dưỡng sinh, tu thân, cầu Đạo, đắc Đạo của Trang. Trong bài này tôi lần lượt bàn những vấn đề sau I. LƯỢC SỬ TRANG TỬ THEO TƯ MÃ THIÊN Trang Tử 莊 子 là người xứ Mông 蒙 [1] tên Chu 周. Chu vốn làm chức lại, coi vườn sơn Tất Viên 漆 園 ở Mông, đồng thời với Huệ Vương nước Lương,[2] Tuyên Vương nước Tề[3] Trang Tử đa văn quảng kiến, học thức uyên thâm, nhưng căn cốt vẫn là lời Lão. Cho nên sách ông viết hơn mười vạn chữ, đại để đều là ngụ ngôn. Làm những bài Ngư phủ, Đạo chích, Khư khiếp để chế giễu những người theo Khổng Tử, và làm sáng tỏ học thuật Lão Tử. Những tên Úy Lũy, Hư Cang Trang Tử đều là chuyện bịa không có thực. Nhưng khéo viết văn, xếp lời, chỉ việc, tả tình, để bài bác bọn nhà Nho, nhà Mặc. Dù những người học rộng thời ấy, cũng không sao cãi, để gỡ lấy mình được. Lời Trang Tử mênh mông phóng túng, cốt cho sướng ý mình, cho nên các bậc vương công, đại nhân không thể dùng được. Uy Vương nước Sở 339-328, nghe biết Trang Tử là người hiền, sai sứ mang nhiều lễ vật sang mời, hứa cho làm tướng quốc. Trang Chu cười nói với sứ giả nước Sở Nghìn vàng là lợi lớn, khanh tướng là ngôi tôn. Ông chẳng thấy con trâu đem tế Trời trong lễ Giáo đó sao? Nuôi nấng trong vài năm, cho mặc đồ gấm vóc, để cho vào Thái miếu. Lúc ấy, dù muốn làm con lợn con côi cút cũng không được nữa. Ông đi ngay đi. Đừng làm bẩn tôi. Tôi thà chơi đùa trong rạch bùn cho thích, chứ không để cho kẻ có nước buộc ràng. Chung thân tôi không làm quan, để sống cuộc đời thoải mái như ý thích.» [4] II. KHÁI LƯỢC NAM HOA KINH Trang Tử viết một bộ sách, sau này gọi là Nam Hoa Kinh 南 華 經 hay Nam Hoa Chân Kinh 南 華 真 經. Theo Hán thư nghệ văn chí, thì Nam Hoa Kinh thoạt kỳ thủy có 52 thiên. Sau này Quách Tượng dồn lại còn có 33 thiên. 33 thiên lại chia làm 3 phần theo bản Quách Tượng Nội thiên, Ngoại thiên và Tạp thiên. NỘI THIÊN 內 篇 gồm bảy thiên 1. Tiêu diêu du 逍 遙 游, 2. Tề vật luận 齊 物 論, 3. Dưỡng sinh chủ 養 生 主, 4. Nhân gian thế 人 間 世, 5. Đức sung phù 德 充 符, 6. Đại tông sư 大 宗 師, 7. Ứng đế vương 應 帝 王. NGOẠI THIÊN 外 篇 gồm 15 thiên 8. Biền mẫu 駢 拇, 9. Mã đề 馬 蹄, 10. Khư khiếp 胠 篋, 11. Tại hựu 在 宥, 12. Thiên địa 天 地, 13. Thiên đạo 天 道, 14. Thiên vận 天 運, 15. Khắc ý 刻 意, 16. Thiện tính 繕 性, 17. Thu thủy 秋 水, 18. Chí lạc 至 樂, 19. Đạt sinh 達 生, 20. Sơn mộc 山 木, 21. Điền tử Phương 田 子 方, 22. Trí bắc du 知 北 游. TẠP THIÊN 雜 篇 gồm 11 thiên 23. Canh tang Sở 庚 桑 楚, 24. Từ vô Quỉ 徐 無 鬼, 25. Tắc dương 則 陽, 26. Ngoại vật 外 物, 27. Ngụ ngôn 寓 言, 28. Nhượng vương 讓 王, 29. Đạo chích 盜 跖, 30. Duyệt kiếm 說 劍, 31. Ngư phụ 魚 父, 32. Liệt Ngự Khấu 列 禦 寇, 33. Thiên 天 下. Các nhà bình giải thường cho rằng Nội thiên là của Trang Tử viết có thể trừ ra một vài đoạn như đoạn Tử Tang Hộ trong thiên Đại tông sư. Có người cho rằng Nhân gian thế cũng không do Trang Tử viết. Còn Ngoại thiên và Tạp thiên thì hoặc do môn đệ Trang Tử viết ra, hoặc người sau viết ra mà mượn tên Trang Tử. Lâm Tây Trọng, đời Thanh toát lược Nam Hoa Kinh như sau Trong 33 thiên, nói đi nói lại hơn chữ. Đại ý chẳng qua là Tỏ rõ đạo đức, rẻ rúng nhân nghĩa, coi sống chết là một, coi phải trái in nhau, hư tĩnh điềm đạm, vắng lặng, không làm, thế đấy thôi. Xét ra thì Bảy bài Nội thiên là văn có đầu đề, do chính tay Trang Tử định lấy. Còn Ngoại thiên, Tạp thiên đều lấy chữ trên đầu thiên mà đặt tên… Ấy là những văn không đầu đề. Người đời sau lấy những bài vặt vãnh của Trang sắp đặt lại.» Lâm Tây Trọng bình tiếp đại ý bảy chương Nội thiên như sau Tiêu diêu du cốt nói lòng người quen thành tựu nhỏ nhen, nhưng LỚN 大 mới là quí. Tề vật luận cốt nói lòng người thường quen câu nệ, nhưng HƯ 虛 mới là hay. Dưỡng sinh chủ cốt nói lòng người thường miệt mài đối phó với vật ngoài, nhưng THUẬN 順 mới là phải. Nhân gian thế là phép vào đời. Đức sung phù phép ra đời. Đại tông sư là phép trong có thể là thánh 內 聖. Ứng đế vương là phép ngoài có thể là vua 外 王. Ấy là nghĩa riêng của bảy bài Nội thiên. Thế nhưng lòng người có lớn mới có thể hư, có hư thì mới có thể thuận… Vào được đời rồi mới ra được đời… Trong làm nổi Thánh, thì ngoài mới làm nổi vua… Ấy là những lẽ đi theo nhau của bày bài Nội thiên. Cứ thế thôi là cũng đã hết được ý chính…» Từ xưa tới nay, đã có rất nhiều nhà bình giải Trang, phiên dịch Trang. Mỗi người giải Trang theo một khía cạnh, một đường lối. Người thì giải Trang theo Lão, người thì giải Trang theo Khổng, người thì giải Trang theo Phật. Trong số các nhà bình giải Trang từ xưa đến nay, chúng ta ghi nhận ít nhiều tên quen thuộc như Quách Tượng, Lâm Hi Dật, Lâm Tây Trọng, Chương Bính Lân, Mã Tự Luân, Cao Hanh, Nghiêm Phục, III. CHÂN TƯỚNG TRANG TỬ Muốn hiểu tư tưởng Trang, phải biết chân tướng của Trang là gì. Xưa nay người ta thường cho rằng Trang Tử là một triết gia, thích sống đời sống phóng khoáng. Có người lại nói cho Trang là một nhà biện luận có tài như Công Tôn Long, hay Huệ Tử. Đánh giá Trang như vầy là rất thấp. Vậy Trang Tử là ai? Từ lâu đọc Lão Trang, tôi vẫn đinh ninh rằng các Ngài là - Những nhà Huyền học Mystiques, nói theo từ ngữ Âu Châu, Những bậc tiên thánh đã siêu phàm, thoát tục, nói theo từ ngữ Á Châu. - Những vì Thiên dân Canh Tang Sở, 22-D hay Thiên tử Nhân gian thế, IV, A hay Chân nhân Đại Tông sư, 6-A, hoặc Chí nhân, Thần nhân hay Thánh nhân Tiêu diêu du, 1-C theo lời Trang tử. Trang Tử cũng là một nhà Huyền học, một bậc chí nhân như Lão tử. Chương Thiên hạ trong sách Nam Hoa Kinh bình về Trang Tử như sau Trên thời vui chơi cùng đấng Tạo Hóa, dưới thời bè bạn với những người đã thoát vòng sinh tử, thủy chung…» [5] Như vậy muốn hiểu Trang tử, phải hiểu thế nào là một nhà Huyền học, thế nào là một bậc Chí nhân. Huyền học Mystique hay Chí nhân hay Chân nhân là những danh từ tặng cho những ai có một đời sống siêu nhân, mãnh liệt, y thức như đã tiếp xúc được với luồng huyền lực vô biên của vũ trụ. Nhà Huyền học là người - Có tâm thần rất thông minh, tinh tế, - Nhìn thấy Đạo, thấy Trời nơi tâm khảm mình. - Nhận thức được tấn tuồng biến thiên, ảo hóa của vũ trụ cũng như của lịch sử nhân quần. - Cố tu luyện, cố thanh lọc tâm thần để đi đến chỗ cao minh, linh diệu. - Sống phối hợp với Trời, coi mình như một hiện thân của Thượng Đế. Các nhà Huyền học Đông cũng như Tây, đều tin tưởng rằng sau bức màn hiện tượng biến thiên, chất chưởng, còn có một bản thể siêu việt tuyệt vời. Các Ngài không biết dùng danh từ gì để mô tả Tuyệt đối ấy cho hay, cho phải, cho nên hoặc là tuyên bố mình bất lực trước Tuyệt đối vô biên ấy, hoặc là dùng những danh từ tiêu cực, mơ hồ để diễn tả, để đề cập đến Tuyệt đối thể ấy. Các Ngài cho rằng con người sinh ra phải tìm về cho được tới nguồn mạch thiêng liêng, huyền diệu ấy, và tất cả các sự biến thiên của vũ trụ lúc chung cuộc cũng kết thúc trong đại thể vô biên, vô tận ấy. Mà nguồn mạch linh thiêng huyền diệu ấy đã tiềm ẩn ngay trong lòng con người. Con người chỉ việc lắng lòng lại, chỉ việc thu thần định trí nhìn sâu vào tâm khảm mình sẽ tìm ra được Bản thể siêu việt huyền nhiệm ấy. Khi đã đạt tới cõi tâm linh siêu vi huyền nhiệm ấy, con người sẽ thoát được mọi trạng thái vong thân, và vươn lên bên trên cái thế giới tương đối đầy mâu thuẫn như Thị phi, thiện ác, sinh tử, và thoát ly được hết những gì hữu hạn, nhân vi, kiềm tỏa con người. Khi đã đạt tới cõi tâm linh ấy, thì lập tức cũng sẽ thâm nhập, hòa đồng được với cõi vô biên man mác, và chính nhờ đó mà con người lấy lại được cái phẩm giá vô song của mình. Vì nhận ra được chiều kích mênh mông vô hạn, vì nhận ra được giá trị vô biên của mình, con người sẽ sống hồn nhiên, tiêu sái, thảnh thơi, hạnh phúc… Tóm lại, một con người đi trên con đường huyền học lúc nào cũng lo trau chuốt nhân cách, cố sống sao cho tinh ròng viên mãn, để có thể rung cảm, để có thể hòa nhịp, hòa đồng được với Đạo, với vũ trụ chi tâm. Nếu một nghệ sĩ dùng tài nghệ mình, tâm linh mình mà khám phá ra được và diễn tả ra được Thần linh hay Thái hòa tiềm ẩn trong đáy lòng vũ trụ, trong đáy lòng vạn vật, khiến cho người khác cũng thưởng thức và được cảm thông với nguồn mạch huyền linh ấy một phần nào, thì các nhà huyền học có bổn phận khám phá ra và diễn tả lại Thần linh ngự trị nơi đáy lòng mình, bằng lời lẽ, bằng đời sống, để những người bàng quan cũng được cùng mình chia sẻ sự cảm thông, hòa hợp ấy… Gần đây, có dịp đọc quyển Sáng tạo và Lão giáo Creativity and Taoism của Trương Trung Viên Chuang Chung Yuan, tôi thấy tác giả cũng có những nhận định tương tự như vậy về Lão, Trang. Trương Trung Viên viết Đối với Lão, Trang, đạt tới bản thể tuyệt đối là vào được lãnh vực siêu việt vô cùng, vào được cảnh giới hư vô, nơi đó ta có thể cảm thông được với vạn hữu… Chúng ta có thể đi vào cảnh giới hư vô bằng Điềm hay bằng Trí. Điềm là Điềm đạm Hư vô, Phật gia gọi thế là Định. Trí là Huệ hay Bát nhã…» [6] Điềm tĩnh là phương pháp tiệm tu. Tuệ trí là phương pháp đốn ngộ. Hai phương pháp này đều được đạo Lão mô tả, và cũng có một mục đích là để vào được cảnh giới Hư vô… Hư vô có thể là Thiên quang, hay là Thuần phác hỗn độn. Đó là hai phương diện của một Thực thể.» [7] Cho nên muốn tiến vào được cảnh giới Hư vô, Vô thức Đại đồng, vào tới Thiên chân Bản thể, phải có chân trí huệ. Trí huệ mới là chiếc chìa khóa để mở cửa Đạo, để phanh phui ra được mọi kỳ bí của Hư vô, ở nơi đó không còn phân biệt nhĩ ngả, ở nơi đó vạn sự, vạn hữu là một…» [8] Vào trong cảnh giới hư vô, vì cảm thông được với vạn hữu, nên coi mọi sự như một, hòa hợp tuyệt đối, hết còn phân nhĩ ngã…[9] Như vậy, nhờ điềm đạm hư vô, nhờ trí huệ, con người sẽ chuyển hóa được mình, sẽ cảm thông được với vạn hữu.[10] Trang Tử cũng chủ trương cần phải thoát ly mọi ràng buộc của thế giới biến thiên, mọi giá trị tương đối của ngoại cảnh. Càng rũ bỏ được cái phù du, hư ảo bao nhiêu, thì càng đạt được đời sống đích thực bấy nhiêu…[11] Như vậy, đối với Trang tử, Chân nhân hay là con người giác ngộ là con người đã phá vỡ được cái kén Tiểu ngã, để hòa mình với Đại ngã…[12] Những nét trên tưởng đã phác họa được chân tướng Trang tử. IV. ĐẠI CƯƠNG HỌC THUYẾT TRANG TỬ Trang Tử là một nhà Huyền học, nên lời lẽ của Ông, tư tưởng của Ông tuy là ẩn ước, bóng bảy, nhưng nếu chúng ta tìm được chốt then đường hướng của Ông, cũng như của đời Ông, ta sẽ thấy chúng trở nên hết sức rõ ràng. Ông viết trong chương Ngoại vật Có nơm là vì cá, Được cá hãy quên nơm. Có dò là vì thỏ, Được thỏ hãy quên dò. Có lời là vì ý, Được ý hãy quên lời. Ta tìm đâu được người biết quên lời Hầu cùng nhau đàm luận.» [13] Thế tức là Ông muốn nhắn nhủ chúng ta đừng nên câu nệ về những lời nói của Ông, và bút pháp của Ông, đừng bận tâm đến - Chi ngôn gặp đâu nói đó - Trùng ngôn Gán lời mình cho một nhân vật lịch sử nào - Ngụ ngôn Nói bằng thí dụ, sự tích, bóng gió, như trong chương Thiên hạ, F nhưng phải chú trọng đến những tư tưởng của Ông, những chủ trương chính yếu của Ông. Đại khái Trang Tử chủ trương - Vũ trụ này có hai phần 1- Một là Đạo. Mà Đạo thời vô sở bất tại, vô biên tế, duy nhất bất khả phân, vĩnh cửu trường tồn. ch. 6-f,g 2- Hai là Hình tướng biến thiên, luẩn quẩn trong vòng tương đối, sinh tử. ch. 6-s,f Hai đàng tuy vô cùng khác biệt, nhưng lại liên lạc hết sức chặt chẽ, hết sức mật thiết với nhau, đến nỗi có thể nói được là Đâu có hiện tượng, thời ấy có Đạo, và như vậy cái hữu hạn vừa nằm trong cái vô cùng, lại vừa hàm chứa được cái vô cùng. Từ trong lòng Đạo mà nhìn ra, thì muôn loài muôn vật là một, hoàn toàn giống nhau, vô cùng vô tận như nhau. Từ trong cảnh giới hiện tượng mà nhìn ra thì muôn loài muôn vật hết sức khác nhau, biến thiên, phù du, ảo hóa. ch. 5-a - Con người cũng như vũ trụ, có hai phần 1- Một là Đạo thể vô biên tế bên trong. 2- Hai là con người phàm tục bên ngoài, với thất tình lục dục niệm lự biến thiên, trí thức, phán đoán thường nhật, thông thường, tử sinh vô định. Thiên Thu Thủy 秋 水 có một câu bất hủ, tóm tắt được quan niệm này, đó là Thiên tại nội, nhân tại ngoại. 天 在 內 人 在 外 Thu thủy, A. - Xã hội loài người, cũng có hai phần 1. Một là Thiên nhiên. Thiên nhiên là cái gì thuộc về Thiên chân, Thiên tính, và như vậy chắc chắn là hoàn mỹ. 2. Hai là Nhân tạo. Mà nhân tạo là tất cả những gì do khối óc con người bày vẽ ra, cho nên dĩ nhiên là kém cõi, dĩ nhiên là vụng về, không thể nào đem lại hạnh phúc thật cho con người được. ch. 11-f; 6-a Và dĩ nhiên, Ông chủ trương rằng con người đạo hạnh phải siêu xuất - Khỏi vòng hiện tượng có giới hạn, để vươn lên tới Đạo thể vô biên, vô hạn ch. 17-a; 6-g; 12-i, k; 16-b - Khỏi vòng niệm lự, tri thức, nhận định gian trần để đạt tới siêu thức. ch. 2-c - Khỏi vòng nhân vi, nhân tạo, để trở về với Thiên nhiên, vì nhân vi nhân tạo không thể nào đem lại hạnh phúc thực sự cho con người. ch. 8-a,b,c,d; 9-a,b,c; 10-d; 11-a, 12-c; 13-b,c; 14-f; 17-a; 25-g Chính vì thế mà Ông đả kích tất cả những gì mà con người đã vời ra, bất kỳ về phương diện gì . Kiến thức ch. 25-h . Luân lý ch. 8-a; 17-a; 25-h . Chính trị ch. 9-c; 10-a; 29-b . Nghệ thuật ch. 9-a . Kỹ thuật, cơ khí, văn minh ch. 12-k Ông hoàn toàn thoát sáo, thoát hết mọi khuôn khổ bên ngoài và cho rằng có vậy tâm thần mới được phiêu diêu khinh thoát. Trang Tử không hề đả phá một cách tiêu cực, nhưng thực ra Ông tích cực dạy con người phải đi tìm cái cao siêu, vĩnh cửu, cái lý tưởng tinh hoa, dạy con người phải sống phối kết với Trời, với Đạo cùng trời đất trường sinh bất tử. Có như vậy mới là biết được cái đại dụng, cái vô dụng của cuộc đời. Ông cũng chủ trương cái Tuyệt đối nằm sẵn trong lòng cái tương đối, cũng như thường xuyên bao trùm, khỏa lấp cái tương đối cho nên khi đã vươn lên tới cõi Đại nhất, Đại đồng, con người sẽ hóa giải được mọi chuyện phân biệt lăng nhăng do khối óc con người tự tạo ra. Cho nên chủ trương của Ông là coi thường mọi chuyện đời tương đối, coi in một như nhau mọi cuộc biến thiên Sống chết, vắn dài, xa gần, cao thấp, quí tiện, hay dở, phải trái, yểu thọ ch. 2 Trang Tử đưa ra hai phương pháp chính yếu để đạt tới Tuyệt đối. Đó là Điềm và Trí Thiện tính, 16-a Tư Mã Thừa Trinh Ssu Ma Cheng Chen một đạo sĩ thế kỷ 10, đã cho rằng chữ Trí nơi thiên Thiện tính, a tương đương với chữ Huệ prajna; chữ Điềm Thiện tính, 16-a tương đương với chữ Định. Trí hoặc Minh để nhìn thấu Bản thể. Điềm hoặc Định tức là giữ Tâm bình tĩnh, tĩnh lãng.[14] Thế là từ Lão Trang với hai chữ Điềm, Trí ta có thể bước sang lãnh vực Thiền tông dễ dàng, vì Thiền tông cũng đã được tóm thâu trong hai chữ Định Dhyana và Huệ prajna. Dẫu sao thì Trang cũng là người bàn về quan niệm Phối Thiên rõ ràng nhất, trong sáng nhất. Trang Tử khẳng định Người xưa sống hợp nhất với Trời.[15] Nơi chương Thiên hạ, Trang Tử viết Không lìa xa gốc gác thời gọi là Thiên nhân; Không lìa xa tinh hoa thì gọi là Thần nhân; Không lìa xa Chân thể hoàn hảo, thì gọi là Chí nhân… lấy Trời làm tông, lấy Đức làm gốc, lấy Đạo là cửa… đó là Thánh thần… Thần, Minh, Thánh, Vương đều cùng một nguồn mà ra… [16] Nơi chương Sơn Mộc, Trang Tử viết Có người hỏi tại sao nói được Người với Trời là một. Trọng Ni đáp Đã là người, tức là Trời… Sở dĩ người không là Trời, là do hành động riêng tư, cho nên thánh nhân điềm tĩnh hòa mình với đại hóa… [17] Nơi chương Tri Bắc Du, Khiết Khuyết hỏi Bị Y về Đạo. Bị Y bảo Hãy giữ thân hình cho ngay ngắn, Hãy tập trung tinh thần mà nhìn vào Duy nhất, Trời sẽ hòa điệu với bạn. Hãy thu nhiếp trí lự, hãy hợp nhất với Tuyệt đối, Thần sẽ giáng trong lòng bạn, Đức sẽ trở nên vẻ đẹp của bạn, Đạo sẽ là nhà của bạn… Bạn hãy hồn nhiên, ngây thơ như con nghé mới sinh, đừng tìm duyên cớ mà chi…» [18] Trang Tử có lẽ là một trong những người đầu tiên trên thế giới mô tả được rõ ràng cái đạo Thánh nhân. Nơi chương Canh Tang Sở, Ông viết Muốn được tĩnh lãng, hãy giữ cho khí bình. Muốn có thần, hãy giữ cho tâm thuận. Muốn làm cho phải, thì chỉ khi cần thiết, bất đắc dĩ mới làm. Chỉ bất đắc dĩ, mới chịu làm làm mới chịu bỏ trạng thái tĩnh lãng tâm thần, đó là đường lối thánh nhân vậy.» [19] Ông viết Giữ cho thần toàn vẹn là đạo thánh nhân.» [20] Ông để Khổng Tử bình luận về những người theo đạo thánh nhân như sau Họ là những người theo thuật của ông Hỗn Độn. Họ chỉ biết Tuyệt đối, mà không biết tương đối. Họ chuyên trị tâm, mà không cần trị cảnh. Họ rõ được quang minh, về được với Thuần phác, Duy nhất. Họ vô vi tĩnh lãng để trở về trạng thái thuần phác nguyên thủy. Họ hòa đồng với Tính, ôm ấp lấy Thần…» [21] Trang Tử ngoài ra còn dạy chúng ta đừng để cho ngoại cảnh, cho thất tình, lục dục điên đảo, làm hư hoại tâm thần ch. 5-c, f; 23-f Mỗi xuyến xao tâm thần là một tai họa, vì nó vừa làm giảm thọ con người, vừa làm cho chúng ta mất bình tĩnh trong sáng 23-g,f Trang Tử còn khuyên chúng ta nên an thời thuận xử ch. 23-g,f đừng bon chen vào chỗ công danh lợi lộc, đừng có kình chống với thiên nhiên, với tha nhân 33-b, có vậy mới được thảnh thơi hạnh phúc. Lại nên sống thoát sáo ch. 2; 3, có một đời sống cao đại, một tâm hồn thoát tục ch. 11-e. Hãy rũ bỏ hình tướng hữu hạn, tâm tư hữu hạn mà băng lên sống trong lòng vô hạn, vô cùng ch. 5-e; 11-e; 15-a,b; 16-b; 19-e; 22-e; 23-b,c; 24-h. Ông ước mong cho muôn loài được phát triển theo căn cơ, theo thiên tính của chúng. Thiên Biền mẫu viết Cẳng le thì ngắn, cố mà nối dài thì nó khổ. Chân hạc thì dài, chặt bớt thì nó đau, cho nên tính mà dài, không phải là cái nên chặt bớt, tính mà ngắn không phải là cái nên nối thêm thế thì không có gì là lo.» [22] Tóm lại, thực đúng như trong Thiên hạ thiên đã nói Trang Tử trên thì vui cùng Tạo hóa, dưới thì bè bạn với những người đã thoát vòng sinh tử, thủy chung…» [23] Những lời nói của Trang Tử hết sức sắc bén, hết sức linh động, biến hóa.[24] Lắm lúc ông có giọng châm biếm, như cợt, như đùa, nửa hư, nửa thực, nhưng chung qui, Ông chỉ muốn cho người đọc Ông có cái nhìn rộng hơn, lối sống hay hơn, lý tưởng hơn, nhất là bỏ được cái hữu hạn, để vươn lên tới vô cùng. g Lúc thì Ông vui miệng nói ngay chi ngôn lúc thì ông làm sống động lại các nhân vật lịch sử, và cho họ nói những lời mà Ông muốn trùng ngôn, lúc thì Ông kể truyện ngụ ngôn ngụ ngôn ch. Thiên hạ, 33-f, lúc thì Ông tranh luận, so sánh, lúc thì đàm thoại, lúc thì vấn đáp, tất cả đều có mục đích phá vỡ cái vỏ ngã chấp» của ta, để chúng ta mở mắt ra nhìn thấy được khung trời nội tâm, khung trời bản thể vô biên vô tận. Bất kỳ một hoàn cảnh nào, bất kỳ một câu chuyện gì, đối với Trang, cũng như là một chiếc bàn đạp, để tung mình lên cho tới cõi siêu vi. Nhờ đó mà Trang không xa lìa đời sống hằng ngày, không xa lìa chúng nhân mà vẫn làm được công trình là giúp con người vươn lên trên những cái nhỏ hẹp của đời sống hằng ngày, đó là băng lên cho tới cõi u linh, huyền diệu. Đọc Trang, ta thấy rằng nếu không thoát sáo, không thể nào có một đời sống nội tâm phong phú đích thực… Chung qui, Trang Tử chỉ ước muốn chúng ta sống tiêu diêu, khinh thoát, trong cõi Tuyệt đối, vô cùng mà Ông gọi là . Cái nghề nghiệp vô vi Vô vi chi nghiệp, . Cái làng không ở nơi đâu Vô hà hữu chi hương, . Cánh đồng bao la rộng rãi Khoáng mạc chi dã, Trang Tử chỉ ước muốn chúng ta trở thành những . Thần nhân . Thánh nhân . Chí nhân ch. I-c; 33-a . Chân nhân ch. I-c; 2c, f . Những người đạt tới Chí đạo ch. 11-c Mà chân nhân thì trên phải hòa mình được với Đại thể, dưới thì vui sống được với mọi người, mọi loài, mọi vật, với cảnh trí thiên nhiên, với mọi hoàn cảnh mình gặp 2h, 3abc, 5d Tâm hồn thì như làn nước lắng chiếu soi được trời đất nhân quần một cánh hết sức vô tư và chân thật. 13 a Đọc Trang, trước hết phải hiểu tinh thần của Trang, chủ trương của Trang. Sách của Trang là một kho tàng châu báu, nhưng thay vì để kho tàng ấy chất đống vào một nơi, ông đem nó vung vãi ra trong một vùng lớn lao gồm chữ, dấu chúng vào trong những ngụ ngôn, những huyền thoại những câu chuyện bông lông… Ta hãy quên lời quên chuyện của Trang kể mà chỉ lưu tâm lượm lặt lấy những tư tưởng của Trang. Đó mới chính là những châu ngọc mà Trang dành cho chúng ta vậy. V. LƯỢC DỊCH 7 CHƯƠNG TRONG NỘI THIÊN I. TIÊU DIÊU DU a. Hãy sống một cuộc đời huyền hóa với trời đất đoạn a,b Hồn ta hỡi, hãy tiêu diêu, Tung đôi cánh rộng khinh phiêu chín tầng… Hãy tung cánh chim bằng muôn dặm, Cưỡi gió mây bay thẳng về Nam, Bay về quê cũ giang san, Hồ trời vùng vẫy miên man thỏa tình. b. Mặc cho miệng thế dèm pha, chỉ trích đoạn a,b Mặc nhân thế rẻ khinh đàm tiếu, Óc phàm phu sao hiểu chí nhân… Vùi thân trong chốn hồng trần, Họ như ve, sẻ qua lần tháng năm. Tầm mắt hẹp mà thân ti tiểu, Kiếp phù du nào hiểu chi đâu, Thân lươn bao quản lấm đầu, Cốt sao cho khỏi cơ cầu thì thôi, Phận sâu bọ, đành rồi sâu bọ, Thân nấm rêu nào rõ tuần trăng. Ve sầu nào biết thu xuân, Minh linh ngoài mấy vạn năm hay gì? Như Bành tổ có chi là thọ, Mà chúng nhân quá cỡ tán dương. c. Hãy sống thoát tục, vươn lên cao đại đoạn c Người vui tước phận lý hương, Ngươi vui mũ áo xênh xang trị vì. Kìa Liệt Tử thích đi mây gió, Cưỡi gió mây đây đó thỏa lòng. Còn ta khinh khoát vô cùng, Sánh vai nhật nguyệt, vẫy vùng khinh phiêu. Quên mình quên hết mọi điều, Quên tên, quên hết bao nhiêu công trình.[25] Sống đời sống thần linh sảng khoái, Như Hứa Do chẳng đoái công hầu. Uống ăn nào có chi đâu, Mà lo với lắng cho rầu lòng ai. d. Đời sống thần linh không phải là chuyện hoang đường đoạn d Ta chẳng nói những lời phách lối, Lời của ta đâu nỗi hoang đường. Lời ta minh chính đường hoàng, Vì người không hiểu, trách quàng trách xiên… Kẻ mù tối sao xem mầu sắc, Người điếc tai sao bắt âm thanh. Cho nên những kẻ vô minh, Tối tăm ù cạc, ngọn ngành hiểu chi, Sao biết được uy nghi sang cả, Của những người huyền hóa siêu linh. Đất trời gồm tóm trong mình, Lồng vào muôn vật sự tình nào hai. Dẫu sóng cả ngất trời không đắm, Dẫu nóng nung cũng chẳng làm sao. Trời mây mặc sức tiêu dao, Cho dù Nghiêu, Thuấn dễ nào sánh vai… e. Phải biết lợi dùng hết tầm kích của đời mình đoạn e, f Kiếp sống nọ mấy ai biết dụng, Biết cách dùng cho đúng, cho hay. Có dưa năm thạch trong tay, Bổ ra năm bảy, dưa này vứt đi. Như nếu biết để y như trước, Dùng làm phao, sông nước nó băng. Đổi bất qui thủ lấy vàng, Ngỡ là đã khéo tính toan lãi lời. Ai ngờ nó giúp Ngô thắng Việt, Giúp chủ nhân mãn kiếp vinh quang. Biết dùng thời thực mênh mang, Dùng sai, dùng dở oán than nỗi gì. Nhưng hay nhất là khi vô dụng, Thoát vòng đời tù túng lợi danh. Sống trong Vô cực siêu linh, Xa bề khổ ải, mặc tình nhởn nhơ… 2. TỀ VẬT LUẬN Ta và trời đất cùng sinh, Ta và muôn vật sự tình chẳng hai.[26] Ta nào biết vắn dài, nhĩ ngã, Lòng muôn phương, muôn ngả tỉnh say.[27] Thênh thang chèo quế buồm mây, Lòng trời lạc nẻo chốn này là đâu? [28] Nhạc trời tấu vui sầu muôn điệu,[29] Bóng quang huy phiêu diễu mung lung, Nơi đây ta dứt lòng trần, Bạn cùng thần thánh, muôn phần hân hoan.[30] Triều nổi sóng muôn vàn ta mặc, Lửa ngất trời phần phật ta khinh.[31] Ta nay đã thoát điêu linh, Thoát vòng sinh tử, tử sinh của đời.[32] Ta sống giữa lòng trời vĩnh cửu, Ta sống trong khu nữu muôn loài.[33] Vời trông thế sự vần xoay, Ta nào còn biết bên này bên kia. Tranh chấp hết, thị phi cũng hết, Thị với phi phân biệt uổng công.[34] Đã vài tới điểm đại đồng, Trông ta trời đất mênh mông một màu. Lớn với nhỏ in nhau một lứa, Sống vắn dài cũng thủa phù sinh. Sợi lông bát ngát mênh mông, Mà xem non Thái như tình cỏn con. Kẻ chết yểu sống hơn trăm kiếp, Còn Lão Bành yếu triết, tảo vong,[35] Ta nay xếp mọi tơ lòng, Hết niềm nhĩ ngã, sống trong lòng trời.[36] Nguồn mạch ấy chẳng vơi, chẳng cạn. Mà tràn lan, lai láng rạt rào. Kho trời đã rõ tiêu hao, Tiêu sao cho hết, dùng sao cho cùng.[37] Mặc tôm cá sống cùng tôm cá, Mặc hươu nai nghĩa gá hươu nai, Mặc cho khỉ vượn sánh đôi, Mặc cho trai gái tìm nơi tương phùng.[38] Ta tìm Đạo trong lòng vũ trụ,[39] Trong lòng ta ta cứ tìm Trời. Thương cho nhân thế miệt mài, Lao đao lận đận suốt đời uổng công.[40] Những bôn tẩu mơ mòng ảo ảnh, Khiến cho đời hiu quạnh gian truân. Nào hay ở giữa lòng trần, Tấc thành đã sẵn muôn phần quang hoa.[41] Nơi chốn ấy chói lòa ánh sáng,[42] Cũng là nơi tĩnh lãng siêu nhiên.[43] Là nơi sực nức hương tiên, Rườm rà ta bỏ, tần phiền ta quăng.[44] Đừng biện luận nói năng chi nữa, Biết nói sao, biết tả làm sao? [45] Mênh mông bát ngát rạt rào, Im hơi lặng tiếng mới cao, mới tài.[46] Ta quên hết hình hài ngôn ngữ, Quên rằng ta còn có hay không.[47] Lạ thay phong thái huyền đồng, Rũ sao cho sạch tơ lòng mới nghe.[48] Sống khinh khoát muôn bề khinh khoát, Cùng trăng sao bát ngát xa chơi. Lòng mang vũ trụ đất trời, Cùng chư thần thánh muôn đời sống chung.[49] Sống mãi mãi vô cùng, vô tận, Mặc trời mây chuyển vận quanh ta, Mặc cho trần thế bôn ba, Vì ta đã được tinh hoa đất Trời… [50] Thử ướm hỏi đâu nơi dừng gót, Đâu là nơi cùng tột phải đi? Ta nay truyền lẽ huyền vi, Có Trời lập tức hết kỳ bôn ba. Được Trời, Đạo ấy là đạt đích, Hết lần mò tầm mịch lăng nhăng.[51] Được Trời là được Thiên chân, Chân nhân phải có Thiên quân đáy lòng.[52] 3. DƯỠNG SINH CHỦ Muốn cho đời sống khinh phiêu, Bớt điều háo hức, bớt điều bon chen. Chớ lo mua chuốc lời khen, Cũng đừng đọa lạc tội khiên gông cùm. Sao cho trong ấm ngoài êm, Đề huề gia đạo, chu tuyền tấm thân. Chớ xông vào chỗ gian truân, Tránh điều tranh chấp, giành phần hơn thua.[53] Kìa xem thủ thuật mổ bò, Cố tìm khớp trống, mới lùa lưỡi dao. Nơi không chống đối mới vào, Chỗ nào cứng rắn đâm lao ích gì, [54] Lầu son gác tía mà chi, Nếu lòng không được mọi bề khinh phiêu.[55] Sống đời khinh khoát tiêu diêu, Buông tay, đắm mắt cũng điều thiên nhiên. Có chi mà sợ cùng phiền, Chết là thoát tục, thành tiên ngại gì.[56] 4. NHÂN GIAN THẾ SỐNG TRÊN ĐỜI Sống đời ở giữa thế gian, Đừng đem dây rợ buộc ràng mà chi. Đừng có ỷ sở tri, sở học, Mà tính toan xoay cuộc cờ đời. Trước khi muốn cảm hóa người, Tâm linh trước phải tuyệt vời mới nên.[57] Tâm linh phải biết niềm chay tịnh.[58] Giữ cho lòng bình tĩnh hư vô, Nhà không ánh sáng hiện ra, Lòng không sẽ thấy chói lòa trời cao.[59] Kìa Vũ, Thuấn xưa nào có khác, Nọ Phục Hi cũng trạc thế thôi. [60] Còn như đối đãi với đời, Dẫu rằng quyền biến chớ sai tấc thành. Đừng nóng nảy lo tranh lo chấp, Đừng bon chen háo hức, say mê. Trước sau trang trọng đề huề, Đừng đem nóng giận hại bề giao du.[61] Với người chớ khư khư cố chấp, Phải lựa chiều tùy bậc tùy nơi, Dạy người không phải bẻ người, Mà là uốn nắn lần hồi mới hay.[62] Muốn dại dụng chớ say tiểu dụng, Đừng cho người thao túng đời ta. Thao quang, hối đức» mới là, Thần minh sau trước khôn qua lẽ này.[63] 5. ĐỨC SUNG PHÙ Vương Bài nước Lỗ cụt chân, Nhưng mà đệ tử đông bằng Trọng Ni. Thường Quí lạ, mới đi ướm hỏi, Hỏi Trọng Ni nông nổi trước sau. Vương Bài nào lạ chi đâu, Lại thêm tàn tật lẽ nào tiếng tăm. Trọng Ni đáp Thánh nhân là thế, Ngay Khưu này hồ dễ sánh vai. Ta còn muốn lấy làm thầy, Hèn chi kẻ kém Khưu này theo chân. Một nước Lỗ đã rằng chi lạ, Ta muốn cùng thiên hạ đi theo. Họ thường gạn hỏi đến điều, Con người như thế cao siêu thế nào. Trọng Ni đáp Biết bao cao cả, Sống chết kia đâu há quan tâm. Trời long, đất lở rầm rầm, Mà Ngài đâu có lộ phần xuyến xao. Biết tính mạng, tiêu hao gốc ngọn, Lòng lâng lâng nào bợn trần ai. Mặc cho muôn vật vần xoay, Bởi vì chủ chốt trong tay đã cầm. Thường Quí nói xin phân giải rõ, Nghĩa huyền vi soi tỏ một phen. Đáp rằng Vạn vật biến thiên, Phải nhìn cho tỏ hai bên dị đồng. Từ khác biệt mà trông vạn vật, Thời chia phôi gan mật, Việt Ngô. Nhưng từ đồng điểm nhìn ra, Muôn loài là một, phôi pha chưa từng. Vui sống cõi hòa đồng của Đức, Xếp một bên nhận thức ngũ quan. Sá chi mất một chân phàm, Chẳng qua hòn đất ném tòm khác chi.[64] Dùng trí tuệ để suy tâm khảm, Dùng tâm cơ nhàn lấm thường tâm.[65] Đã tìm ra được Thiên quân, Như hồ trong vắt chiếu cùng trời mây. Như tùng bách tháng ngày tươi tốt, Như Thuấn Vương đạo cốt Tiên phong. Thảnh thơi, điềm tĩnh ung dung, Oai phong hùng dũng giữa vòng biến thiên. Vì lòng họ gồm kiêm trời đất, Lại cưu mang vạn vật sinh linh. Cũng là tai mắt thân hình, Mà trong rực rỡ tâm linh huy hoàng. Họ hiểu biết mênh mông vô tận, Sống vô cùng, vô hạn từ bao. Ai theo nào khiến ai nào, Con người thế ấy, nói sao cho cùng.[66] Thiên chân ví ở cõi lòng, Sá chi lành sất, hình dung bề ngoài. Tâm linh đường đã vạch rồi, Sá chi mũ mãng, hán hài, công danh. Mở lòng rộng rãi mông mênh, Trời kia đất nọ há dành riêng ai.[67] Đừng nên đày đọa hình hài, Đừng vì danh hão phí hoài tấm thân. Tại sao tù túng tinh thần, Hãy nên khôn khéo gỡ lần vấn vương.[68] Thái Hòa giữ vẹn Tâm thường», Thất tình chớ để tổn thương tâm thần. Sự đời chất chưởng thăng trầm, Lẽ trời đã thế bận tâm làm gì. Cùng người hoan lạc sầu bi, Dung nhan ta đổi tùy nghi, tùy thời. Giữ sao cho vẹn lòng trời, Đừng cho gió cuốn, sóng trôi tâm hồn. Thế là giữ được tài toàn», Thế là đức hạnh chứa chan tuyệt vời.[69] Dừng chân lòng dạ có nơi, Ngoại thân nào quản hình hài nhỏ nhen. Hình người, lòng đã thành tiên, Tình đời phải trái tần phiền sạch không. Với người tuy vẫn lộn sòng, Với Trời kỳ thật hòa đồng từ bao.[70] 6. ĐẠI TÔNG SƯ Bài Đại Tông sư này gồm ba đề mục chính a. Chân nhân. b. Đạo. c. Nghệ thuật sống. Vậy chương này sẽ có ba tiết bàn về những vấn đề trên. a. Chân Nhân Biết trời mà biết cả người, Đó là cái biết tuyệt vời thâm uyên. Biết trời mới biết căn nguyên, Biết người mới biết chu tuyền tấm thân. Chân tri là bậc chân nhân, Chân nhân mới được thông phần chân tri. Chân nhân khinh khoát huyền vi, Há lo tranh chấp, há vì công danh. Trèo cao lòng cũng chẳng kinh, Nước trào, lửa cháy, tâm linh chẳng sờn. Một lòng sau trước sắt son, Lòng mang Đạo cả nào còn sợ chi. Chân nhân nằm ngủ chẳng mê, Còn khi tỉnh thức muôn bề thảnh thơi. Chân nhân khác biệt người đời, Niềm tràn phất phới, niềm trời sâu xa. Tử sinh nào khác chi là, Đi vào chẳng thích, đi ra chẳng cần. Nhân tâm chẳng phá đạo tâm, Ý trời há để lòng trần cản ngang. Cho nên dáng dấp đàng hoàng, Tâm hồn bình thản dung quang sáng ngời. Vui buồn hợp nhất với Trời, Mênh mông bát ngát, ai người dám so. Kinh quyền tùy tiện đẩy đưa, Trời chiều, vả lại người ưa mới là.[71] b. Đạo Đạo trời hữu tính hữu hình, Vô vi vả lại vô hình mới hay. Dễ truyền, khó bắt lạ thay, Giữ thời giữ được, trông rày hẳn không. Tự sinh, tự bản vô cùng, Có từ trời đất còn không có gì. Sinh trời sinh đất ra uy, Quỉ thần âu cũng là tùy sở do. Cao cao vô tận, khôn dò, Cao hơn Thái Cực vẫn cho là thường. Thẳm sâu sâu mấy ngàn muôn, Sâu hơn vũ trụ mà nhường không hay. Lâu lai nào kể tháng ngày, Trước trời, trước đất, lâu này lâu chi. Sống từ muôn thuở vẫn y, Ngàn muôn tuổi thọ, đã gì già nua. Hi Di, Hoàng đế, Kiên Ngô, Kham Phi, Chuyên Húc đã nhờ thần thông. Đạo trời soi sáng cõi lòng, Mới thành Thần Thánh sống cùng trời mây. Lão Bành, Phó Duyệt nhờ tay, Ngung Cường, Vương Mẫu may thay được người. Mới nên Thần Thánh tuyệt vời, Ngự nơi Thiếu Quảng, chơi nơi Ngân Hà. Biết bao thỏ lặn, ác tà, Hai vầng nhật nguyệt khôn qua Đạo Trời. Kìa như Bắc Đẩu thảnh thơi, Cũng nhờ Đạo cả mới ngôi cửu trùng. Đạo Trời ngẫm thực vô cùng, Biết bao quyền phép thần thông nhiệm mầu.[72] c. Nghệ thuật sống Ta nên sống thuận mệnh Trời, Vấn đề sinh tử nên coi là thường. Hình hài chẳng vấn vương tấc dạ, Vẻ bên ngoài biến hóa quản chi. Tồn vong sinh tử cũng y, Chẳng qua máy tạo huyền vi an bài.[73] Đời trần thế là đời mộng ảo, Tỉnh với mơ lộn lạo khác chi, Tử sinh như ở với đi, Như thay hình tướng có chi bận lòng. Dù Nam, Bắc, Tây, Đông cũng vậy, Trời bảo sao, ta hãy vui theo.[74] Mặc cho ngoại cảnh xoay chiều, Giữa lòng Tạo Hóa khinh phiêu thỏa tình. Đem tâm gởi mênh mông bát ngát, Thời tâm này mất mát làm sao? [75] Muốn tìm ra Đạo chí cao, Nếu không suy tưởng nhẽ nào tìm ra. Hãy thâu lượm tinh hoa sử sách, Hãy khơi tung nguồn mạch đáy lòng. Hư vô khi đã khai thông, Rồi ra sẽ được huyền đồng chẳng sai. Tìm Trời phải quên đời, quên cảnh, Quên phù sinh, ảo ảnh bên ngoài, Tâm hồn khi hết pha phôi. Mới mong rực rỡ ánh trời hiện ra. Đã thấy Đạo, đâu là kim cổ, Hết cổ kim vào chỗ trường sinh. Ham sinh thời lại điêu linh, Phù sinh chẳng chuộng, thần linh ấy là.[76] Hãy cố gắng vượt qua nhân nghĩa, Hãy quên đi nghi lễ của đời.[77] Quên mình, quên cả hình hài, Thông minh trí huệ, gác ngoài tâm linh. Hãy hợp với vô hình, vô tượng, Cùng Đại thông vô lượng sánh đôi.[78] Thế là được Đạo được Trời, Thoát vòng biến hóa muôn đời trường sinh… [79] Ai chỉ vẽ sự tình sau trước, Ấy thầy ta đại lược cho ta. Thầy ta muôn vật điều hòa, Mà nào kể nghĩa với là kể ơn. Ban ân trạch cho muôn thế hệ, Mà chưa hề lấy thế làm nhân. Trường tồn đã mấy muôn năm, Mà chưa hề thấy có phần già nua. Thầy ta chở cùng che trời đất, Lại ra tay điêu khắc muôn loài, Thế mà một mực thảnh thơi, Chưa hề có bảo là tài, là hay.[80] 7. ỨNG ĐẾ VƯƠNG Nghệ thuật trị dân Trị dân nước thế nào cho phải, Làm sao cho quốc thái dân an. Bên ngoài lo lắng sửa sang, Hay lo cảm hóa tâm can con người. Sửa sang nghi thức bên ngoài, Thực là tính chuyện vá trời đào sông.[81] Lấy lòng dân nước làm lòng, Nhu hòa điềm đạm, như không mới là. Đừng nên lận đận bôn ba, Lao tâm khổ tứ cho ra thân tàn. Phải cho phong độ đàng hoàng, Rồi ra mới đáng nêu gương cho người.[82] Minh vương nghệ thuật tuyệt vời, Công trùm thiên hạ mà coi như thường. Đức trời cảm hóa muôn phương, Há cần dân phải lo lường nài van. Âm thầm gây dựng mối giường, Để cho muôn vật an khương thái hòa.[83] Riêng mình rũ bỏ phù hoa.[84] Vui trong Đạo cả cao xa tuyệt vời.[85] Sống trong Vị thủy chơi vơi.[86] Cỡi chim Khinh khoát» ra ngoài lục hư. Làng Vô hà hữu ngao du, Sống trong Vô hữu» lặng tờ tịch liêu.[87] Vô vi như thể trời cao, Vô vi trác tuyệt nói sao cho cùng. Bao trùm vô tận thinh không, Mịt mù tông tích ai lùng cho ra.[88] Tâm hồn gương sáng sáng lòa, Chiếu soi muôn vật đâu là riêng tây.[89] Vô vi hỗn độn ai hay, Phẩm tiên chớ để lọt tay phàm trần… [90] CHÚ THÍCH [1] Mông 蒙 theo Địa lý chí thì thuộc nước Lương; theo Lưu Hướng biệt lục thì thuộc nước Tống. Phùng Hữu Lan cũng cho rằng Trang Tử là người nước Tống. [2] Lương Huệ Vương nguyên niên và khoảng năm 6 đời Chu Liệt vương 370. [3] Tề Tuyên Vương 332-313. Trang Tử đồng thời với Mạnh tử 372-289. Huệ Tử 380-300, Công Tôn Long 320-250. Như vậy, Trang Tử sống vào những khoảng năm 360-286. [4] Sử Ký Tư mã Thiên, Lão, Trang, Thân, Hàn liệt truyện. [5] Thượng dữ Tạo vật giả du, nhi hạ dữ ngoại tử sinh, vô chung thủy giả vi hữu…» 上 與 造 物 者 游 而 下 與 外 死 生,無 終 始 者 為 友 Thiên hạ, F. [6] To the Taoist, the attainment of absolute reality is to be in the realm of the great infinite, the realm of non being. To enter the realm of non-being is to have reached the ground of the great sympathy. One may enter the realm of non-being either through quiescence, t’ien 恬, or though intuitive knowledge, chih 智. The former concentrates upon repose, or what the Buddhists call Dhyana. The latter stresses on intuition or prajna. The concentration on repose is often referred to as the method of gradual attainment; stress on intuition is referred to as sudden enlightenment. Both methods are described in Taoist writings. But the goal of either method is the entry into the realm of non-being. - Chuang Chung Yuan, Creativity and Taoism, p. 49. [7] Non being manifests itself either as the Heavenly light or the uncarved block. They are two aspects of the same thing. Ibid. [8] The first approach, through Chih, or intuitive knowledge is pure self consciousness through immediate, direct, primitive penetration instead by methods that are derivative, inferential, or rational. In the sphere of intuitive knowledge, there is no separation between the knower and the known, subject and object are identified… Ibid. p. 49 [9] Free identification and interfusion in the realm of non-being are the functions of the great sympathy. In short, it is the Tao, the higher unity of all things. Ibid. [10] In the realm of non-being the interfusion and identification of multiplicity takes place as a manifestation or the great sympathy. Ibid, [11] Emancipation from the bondage of the ever-changing world, from the relative value of external things, and from the unstable and evasive existence, is achieved through the denial and denial. Ibid, [12] Psychologically speaking, it is the transformation from a consciousness limited to ego-form of the non-ego-like-self.» Ibid, [13] Thuyên giả sở dĩ tại ngư; đắc ngư nhi vong thuyên. Đề giả sở dĩ tại thố, đắc thố nhi vong đề. Ngôn giả sở dĩ tại ý, đắc ý nhi vong ngôn. Ngô an đắc phù vong ngôn chi nhân nhi dữ chi ngôn tai. 筌 者 所 以 在 魚 得 魚 而 忘 筌 蹄 者 所以 在 兔 得 兔 而 忘 蹄 言 者 所 以 在 意 得 意 而 忘 言 吾 安 得夫 忘 言 之 人 而 與 之 言 哉. [14] According to the tenth century Taoist named Ssu-Ma-Cheng-Chen, the words Chih and T’ien are what the Buddhists refer to as Hsing, or Dhyana and Hui or Prajna. - Chuang Chung Yuan, Creativity and Taoism, p. 41… … According to Taoism, there are two routes leading to enlightenment, Ming, or Ontological insight, Ching or quiescence. Ibid, 123 … One may enter the realm of non-being either through quiescence T’ien or through intuitive knowledge, Chih. The former concentrates upon repose, or what the Buddhists call Dhyana. The latter stresses on intuition, or Prajna Ibid. 49 [15] Cổ chi nhân Thiên nhi bất nhân. 古 之 人 天 而 不 人 Liệt Ngự Khấu, 32-c [16] Bất ly ư tông, vị chí Thiên nhân. Bất ly ư tinh vị chi Thần nhân. Bất ly ư Chân, vị chi Chí nhân. Dĩ Thiên vi tông, dĩ đức vi bản, dĩ Đạo vi môn, triệu ư biến hóa, vị chi Thánh nhân. 不 離 於 宗, 謂 之 天 人. 不 離 於 精, 謂 之 神 人. 不 離 於 真, 謂 之 至 人. 以 天 為 宗, 以 德 為 本, 以 道 為 門, 兆 於 變 化, 謂 之 聖 人 Thiên hạ, 33-a … Chân giả, tinh thành chi chí dã. 真 者 精 誠 之至 也 Ngư phụ, 31-d … Thần hà do giáng, minh hà do xuất, thánh hữu sở sinh, vương hữu sở thành, giai nguyên ư Nhất… 神 何 由 降, 明 何 由 出? 聖 有 所 生, 王 有 所 成, 皆 原 於 一 Thiên hạ, 33-a [17] Hà vị nhân dữ Thiên nhất da? Trọng Ni viết Hữu Nhân, Thiên dã, hữu Thiên, diệc Thiên dã. Nhân chi bất năng hữu Thiên, tính dã. Thánh nhân yến nhiên, thể thệ nhi chung hĩ. 何 謂 天 與 人 一 邪? 仲 尼 曰 有 人, 天 也, 有 天, 亦 天 也. 人 之 不 能 有天, 性 人 晏 然 體逝 而 終 矣. Sơn mộc, 20-g [18] Khiết Khuyết vấn đạo hồ Bị Y. Bị Y viết Nhược chính nhữ hình, nhất nhữ thị, Thiên hòa tương chí. Nhiếp nhữ tri, nhất nhữ độ. Thần tương lai xá, đức tương vi nhữ mỹ, Đạo tương vi nhữ cư. 齧 缺 問 道 乎 被 衣. 被 衣 曰 若 正 女 形, 一 女 視. 天 和 將 至. 攝 女 知, 一 女 度. 神 將 來 舍, 德 將 為 女美, 道 將 為 女 居 ch. 22-c. [19] Dục tĩnh, tắc bình khí, dục thần tắc thuận tâm. Hữu vi dã dục dáng, tắc duyên ư bất đắc dĩ, bất đắc dĩ chi loại, thánh nhân chi đạo. 欲 靜 則 平 氣 , 欲 神 則 順 心. 有 為 也 欲 當 則 緣 於 不 得 已, 不 得 已 之 類, 聖 人 之 道 Canh Tang Sở, [20] Chấp đạo giả, Đức toàn. Đức toàn giả, Hình toàn. Hình toàn giả Thần toàn. Thần toàn giả, thánh nhân chi đạo dã. 執 道 者 德 全 德 全 者 形 全. 形 全 者 神 全. 神 全 者, 聖 人 之 道 也 [21] Bỉ giả tu Hỗn độn thị chi thuật dã. Thức kỳ nhất, bất tri kỳ nhị. Trị kỳ hội, nhi bất tri kỳ ngoại. Phù minh bạch nhập tố, vô vi phục phác, thể tính, bão thần. 彼 假 修 混 沌 氏 之 術 者 也. 識 其 一 不 知 其 二. 治 其 內 而 不知 其 外. 夫 明 白 入 素, 無 為 復 朴 體性, 抱 神 [22] Thị cố phù hĩnh tuy đoản, tục chi tắc ưu, hạc hĩnh tuy trường, đoạn chi tắc bi. Cố tính trường phi sở đoản, tính đoản phi sở tục, vô sở khứ ưu dã. 是 故 鳧 脛 雖短, 續 之 則 憂, 鶴 脛 雖 長, 短 之 則 悲. 故 性 長非 所 短, 性 短 非 所 續, 無 所 去 憂 也 Biền mẫu, 8-a. [23] Thượng dữ Tạo vật giả du, nhi hạ dữ ngoại tử sinh, vô chung thủy giả vi hữu… 上 與 造 物 者 遊, 而 下 與 外 死 生 無 終 始 者 為 友 Thiên hạ, 33-f [24] Chúng ta nên nhớ Trang Tử có tài biện luận như Huệ Thi, Công Tôn Long Hoặc hơn nữa. ch. I-e, f; 2-d; 5-f; 17-d, f, g; 18-b; 24-e; 25-d; 26-g; 27-b; 33-g. [25] Chí nhân vô kỷ, thần nhân vô công, thánh nhân vô danh. 至 人 無 己, 神 人 無 功, 聖 人 無 名 ch. I-c [26] Thiên địa dữ ngã tịnh sinh, nhi vạn vật dữ ngã vi nhất. 天 地 與 我 並 生, 而 萬 物 與 我為 一 ch. 2-d [27] Ký dĩ vi nhất, thả đắc hữu ngôn hồ 既 已 為 一, 且 得 有 言 乎 ch. 2-d … Thị cố hoạt nghi chi diệu, Thánh nhân chi sở đồ dã. 是 故 滑 疑 之 耀 聖 人 之 所 圖 也 ch. 2-d. Phương khả, phương bất khả, Phương bất khả, phương khả. Nhân thị, nhân phi. Nhân phi, nhân thị… 方 可 方 不 可, 方 不 可 方 可. 因 是 因 非, 因 非 因 是 ch. 2-c [28] Thục tri bất ngôn chi biện, bất đạo chi Đạo. 孰 知 不 言 之 辯, 不 道 之 道 ch. 2-e [29] Nhữ văn địa lại, nhi vị văn Thiên lại phù? 女 聞 地 籟 而 未 聞 天 籟 夫 ch. 2-a [30] Thánh nhân ngu truân, tham vạn tuế, nhi nhất thành thuần. 聖 人 愚 芚 參 萬 歲 而 一 成 純 ch. 2-g Thánh nhân bất tùng sự ư vụ… nhi du hồ trần cấu chi ngoại 聖 人 不 從 事 於 務 [...] 而 遊 乎塵 垢 之 外 ch. 2-g [31] Đại trạch phần nhi bất năng nhiệt, hà hán hộ nhi bất năng hàn. 大 澤 焚 而 不能 熱, 河 漢 沍 而 不能 寒 ch. 2-f [32] Nhi du hồ tứ hải chi ngoại, tử sinh vô biến ư kỷ. 而 游 乎 四 海 之 外, 死 生 無 變 於己 ch. 2-f [33] Bỉ thị mạc đắc kỳ ngẫu, vị chi Đạo khu. Khu thủy đắc kỳ hoàn trung, dĩ ứng vô cùng. 彼 是 莫 得 其 偶, 謂 之 道 樞. 樞 始 得 其 環 中, 以 應 無 窮 ch. 2-c [34] Thị dĩ thánh nhân hòa chi dĩ thị phi, nhi hưu hồ Thiên quân thị chi vị lưỡng hành. 是 以 聖 人 和 之 以 是 非 而 休 乎 天 鈞 是 之 謂 兩 行 ch. 2-c [35] Thiên hạ mạc đại ư thu hào chi mạt, nhi đại sơn vi tiểu. Mạc thọ ư thương tử, nhi Bành tổ vi yểu. 天 下 莫 大 於 秋 毫 之 末, 而 大 山 為 小;莫 壽 於 殤 子, 而 彭 祖 為 夭 ch. 2-e. [36] Vong niên, vong nghĩa, chấn ư vô cảnh, cố ngụ chư vô cảnh 忘 年 忘 義 振 於 無 竟 故 寓 諸 無 竟 ch. 2-h. [37] Nhược hữu năng tri thử chi vị thiên phủ, chú yên nhi bất mãn, chước yên nhi bất kiệt, nhi bất tri kỳ sở do lai 若 有 能 知 此 之 謂 天 府 注 焉 而 不 滿 酌 焉 而 不 竭 而 不知 其 所 由 來 ch. 2-d. [38] Viên biên thư dĩ vi thư, mê dữ lộc giao, thu dữ ngư du. Mao Tường, Lệ Cơ, nhân chi sở mỹ dã 猿 猵 狙 以 為 雌, 麋 與 鹿 交, 鰍 與 魚 游. 毛 嬙, 麗 姬, 人 之 所 美 也 ch. 2-e. [39] Thị dĩ thánh nhân hòa chi dĩ thị phi, nhi hưu hồ Thiên quân. 是 以 聖 人 和之 以 是 非 而 休 乎 天 鈞 ch. 2-c. [40] Chung thân dịch dịch nhi bất kiến kỳ thành công, niết nhiên bì dịch nhi bất tri kỳ sở qui, khả bất ai da? 終 身 役 役 而 不 見 其 成 功, 薾 然 疲 役 而不 知 其 所 歸, 可 不 哀 邪 ch. 2-b. [41] Phù tùy thành tâm nhi sư chi, thùy độc thả vô sư hồ. 夫 隨 其 成 誠 心 而 師 之, 誰 獨 且 無 師 乎 ch. 2-b [42] Thử chi vị bảo quang 此 之 謂 葆 光 ch. 2-e. [43] Hóa thanh chi tương dãi, nhược kỳ bất tương đãi, hòa chi dĩ Thiên nghê 化 聲 之相 待, 若 其 不 相 待, 和 之 以 天 倪 ch. 2-h. [44] Vong niên, vong nghĩa, chấn ư vô cảnh, cố ngụ chư vô cảnh 忘 年 忘 義 振於 無 竟 故 寓 諸 無 竟 ch. 2-i. [45] Phù đại Đạo bất xưng, đại biện bất ngôn. 夫 大 道 不 稱, 大 辯 不 言 ch. 2-c. [46] Thục tri bất ngôn chi biện, bất đạo chi đạo 孰 知 不 言 之 辯, 不 道 之 道 ch. 2-d. [47] Kim giả ngô táng ngã 今 者 吾 喪 我 ch. 2-a. [48] Thánh nhân bất tùng sự ư vụ, bất tựu lợi, bất vi hại, bất hỉ cầu. 聖 人 不 從 事務, 不 就 利, 不 違 害, 不 喜 求 ch. 2-g. [49] Nhược nhiên giả, thừa vân khí, kỵ nhật nguyệt nhi du hồ tứ hải chi ngoại, tử sanh vô biến ư kỷ. 若 然 者, 乘 雲 氣, 騎 日 月 而 游 乎 四 海 之 外, 死 生 無 變 於己 ch. 2-e… Bàng nhật nguyệt hiệp vũ trụ vi kỳ vẫn hợp旁 日 月, 挾 宇 宙 為 其 吻 合 ch. 2-g. [50] Chúng nhân dịch dịch, Thánh nhân ngu truân, tham vạn tuế, nhi nhất thành thuần. 眾 人 役 役, 聖 人 愚 芚 參 萬 歲 而 一 成 純 ch. 2-g [51] Xem ch. 2-d, từ Cổ chi nhân tri hữu sở chí hĩ…» 古 之 人 其 知 有 所 至 矣 đến vị thủy hữu thị phi dã.» 未 始 有 是 非也 Đạt Vô cực, hay Thái cực là đạt đích. [52] Thị dĩ thánh nhân hòa chi dĩ thị phi, nhi hưu hồ Thiên quân. 是 以 聖 人 和之 以 是 非 而 休 乎 天 鈞 ch. 2-c. [53] Tóm đoạn a. Dưỡng sinh chủ. [54] Tóm đoạn b. [55] Tóm đoạn c. [56] Tóm đoạn d. [57] Xem đoạn a, Wieger, Les Pères du Système Taoiste, Đoạn này Nguyễn duy Cần bỏ không dịch. [58] Tâm trai 心 齋. a, tr. 232. [59] Hư thất sinh bạch, cát tường chỉ chỉ, vị tọa trì. Phù tuần nhĩ mục nội thông nhi ngoại ư tâm tri, quỉ thần tương lai xá. 虛 室 生 白, 吉 祥 止 止, 謂 坐 馳. 夫 徇 耳 目 內 通, 而 外 於 心 知, 鬼 神 將 來 舍 Wieger, Nhân gian thế, [60] Ibid. a, tr. 234. [61] Xem đoạn b, tr. 235. [62] Xem đoạn c, tr. 236-237. [63] Xem d, tr. 238-239. 1, 240-241. [64] Tóm tắt đoạn a, Đức Sung Phù. Xem Nguyễn Duy Cần, Nam Hoa Kinh, tr. 294-297. [65] Dĩ kỳ tâm đắc kỳ thường tâm. 以 其 心 得 其 常 心. Nguyễn Duy Cần, Nam Hoa Kinh, tr. 291. [66] Từ Trọng Ni viết Nhân mạc giám ư lưu thủy» 仲 尼 曰 人 莫 鑑 於 流 水 đến dĩ vật vi sự hồ» 以 物 為 事 乎 Nguyễn Duy Cần, Nam Hoa Kinh, tr. 291-292. [67] Phù thiên vô bất phúc, địa vô bất tải, Ngô dĩ phu tử vi Thiên địa. 夫 天 無不 覆, 地 無 不 載, 吾 以 夫 子 為天 地 Ibid, tr. 305. [68] Vô Chỉ viết Thiên hình chi an khả giải 無 趾 曰 天 刑 之, 安 可 解 Nguyễn Duy Cần, Nam Hoa Kinh, tr. 306-308. [69] Ai Công viết Hà vị tài toàn?… Thị chi vị tài toàn 哀 公 曰 何 謂 才 全? [...] 是 之 謂 才 全 Nguyễn Duy Cần, Nam Hoa Kinh, tr. 314-315. [70] Diểu hồ tiểu tai, sở dĩ thuộc ư nhân dã, ngao hồ đại tai, độc thành kỳ thiên. 眇 乎 小 哉, 所 以 屬 於 人 也, 謷乎 大 哉, 獨 成 其 天 Ibid., tr. 323 [71] Nguyễn Duy Cần, Nam Hoa Kinh, tr. 340-347. [72] Xem đoạn d Đại Tông Nguyễn Duy Cần, Nam Hoa Kinh, tr. 358-360. [73] Xem Nguyễn Duy Cần, Nam Hoa Kinh, tr. 351-355. [74] Ibid. tr. 351-355. 362-377. [75] Cố Thánh Nhân tương du ư vật chi sở bất đắc độn nhi giai tồn 故 聖 人 將 遊於 物 之 所 不 得 遯 而 皆 存 Nguyễn Duy Cần, Nam Hoa Kinh, tr. 354. [76] Xem đoạn e, tr. 364-365. [77] Xem i, tr. 385-389. [78] Xem tọa vong» 坐 忘 tr. 392… Đọa chí thể, truất thông minh, ly hình, khứ tri, đồng ư đại thông. 墮 枝 體, 黜 聰 明 離 形 去 知 同 於 大 通 Ibid., tr. 393 [79] Đồng tắc vô háo dã, hóa tắc vô thường dã. 同 則 無 好 也, 化 則 無 常 也 Ibid., tr. 393 [80] Nguyễn Duy Cần, Nam Hoa Kinh, tr. 386-389. [81] Phù thánh nhân chi trị dã, trị ngoại hồ. 夫 聖 人 之 治 也, 治 外 乎 Nguyễn Duy Cần, Nam Hoa Kinh, tr. 411 [82] Lao hình, truật tâm 勞 形 怵 心 Ibid., tr. 417. [83] Ibid., tr. 418. [84] Điêu trác phục phác. 雕 琢 復 朴 Ibid., tr. 428 [85] Thể tận vô cùng nhi du vô trẫm 體 盡 無 窮, 而 遊 無 朕 tr. 434 [86] Liệt Tử tự dĩ vi vị thủy học nhi qui 列 子 自 以 為 未 始 學 而 歸 Ibid., tr. 428 [87] Thừa phù mãng diêu chi điểu, di xuất lục cực chi ngoại, nhi du vô hà hữu chi hương, dĩ xứ khoáng lạng chi dã. 乘 夫 莽 眇 之 鳥 以 出 六 極 之 外, 而 遊 無 何 有之 鄉, 以 處 壙 埌 之野 Ibid., tr. 414 [88] Lập hồ bất trắc nhi du ư vô hữu giả dã 立 乎 不 測 而 遊 於 無 有 者 也 Ibid., tr. 418 [89] Vô vi danh thi, vô vi mưu phủ, vô vi sự nhiệm, vô vi tri chủ, thể tận vô cùng, nhi du vô trẩm. 無 為 名 尸, 無 為 謀 府, 無 為 事 任 無 為 知 主, 體 盡 無 窮, 而 遊 無 朕 Ibid., tr. 434 - Chí nhân chi dụng tâm nhược kính, bất tương, bất nghịch, ứng nhi bất tàng. Cố năng thắng vật nhi bất thương. 至 人 之 用 心若 鏡;不 將, 不 逆;應 而 不 藏. 故 能 勝 物 而不 傷 Ibid., tr. 434 [90] Xem các đoạn f, g Ibid., tr. 434-436

tề vật luận của trang tử